Bất Bạo Động Đồng Nghĩa Với Độc Tài Cộng Sản Muôn Năm! Người Việt Phải Hành Động Để Tự Cứu Mình! Đừng Trông Chờ Bất Kỳ Ai. Blog hoạt động từ ngày 28 tháng 2 năm 2.012

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

Sự Sống Và Cái Chết

Lãnh thổ, lãnh hải của quốc gia dù đã mất, nhưng dân tộc còn ý chí tranh đấu, thì sẽ có cơ hội thu hồi lại được.

Quốc gia đã mất lãnh thổ, lãnh hải, và dân tộc tuy còn sống về mặt thể xác, song lại chết về mặt tinh thần tranh đấu, sợ hãi sự hy sinh, thì trước sau gì quốc gia dân tộc phải bị diệt vong, làm mồi ngon cho ngoại bang tham lam.

Phạm Hoàng Tùng.


Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Giải Pháp Dành Cho Giàn Khoan HD - 981 Tàu Cộng


Giàn Khoan HD - 981.{1}
Ảnh nguồn: mạng internet.


Ảnh nguồn: TTXVA.

GIẢI PHÁP NÀO DÀNH CHO GIÀN KHOAN TÀU CỘNG???

Thời điểm đầu tháng 5/2014, Tàu Cộng đưa giàn khoan xâm nhập trái phép vùng biển Việt Nam sẽ mở đầu các biến động kinh tế, xã hội, chính trị phức tạp tại Việt Nam.

Do vậy cá nhân chúng tôi sẽ đăng trên blog những phần nhận định ngắn về vấn đề này theo dạng nhật ký hoặc thời điểm xảy ra biến động nhằm ghi dấu tổng lược một giai đoạn có thể mở ra sự chuyển biến mới trong xã hội chúng ta.
-&-

Giặc tạm thời rút giàn khoan để chuẩn bị tiến sâu hơn vào vùng biển Việt Nam.

Ngày 17/7/2014.

Trong hai ngày 15 và 16/7, giặc Trung Cộng đã có vài dấu hiệu cho thấy trước khi rút giàn khoan, đó là thả các ngư dân Việt Nam bị họ bắt trước đó, và rút một số tàu sắt ra khỏi vị trí chung quanh giàn khoan.

Vào tối ngày 16/7, đài truyền hình quốc doanh Việt Cộng đã trình chiếu những bộ mặt béo mập, hồng hào, hoan hỉ của Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Bình Minh, Phùng Quang Thanh…. khi nghe tin giặc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và di chuyển về hướng đảo Hải Nam.

Trong suốt thời gian dài từ đầu tháng 5/2014 đến ngày 16/7, giàn khoan Tàu Cộng đã đi vô chỗ không người như nhà hoang chết chủ, họ tự tung tự tác, hoạt động giàn khoan không ai nắm được. Họ thăm dò cái gì? Họ khảo sát cái gì dưới lòng biển nước ta? Họ tìm các loại tài nguyên gì của ta trong vùng biển nước ta? Và chủ nhà là Cộng đảng không có một hành động thể hiện lòng yêu nước ngoài các tuyên bố suông có lệ.

Giặc rút không phải vì Mỹ đưa ra yêu cầu phải rút để giữ nguyên trạng tại Biển Đông.

Giặc tạm thời rút và đưa ra tuyên bố đã hoàn thành công vụ trong giai đoạn đầu của sự khảo sát. Thật mỉa mai cho những người luôn tự xưng là lãnh đạo quốc gia và luôn tìm cách giành quyền lãnh đạo bằng bất cứ hành động phi đạo đức trong chính trường Việt Nam hiện nay.

Mỹ đã từng bắt tay với họ Mao để bán đứng Miền Nam Việt Nam thì Mỹ cũng có thể bắt tay với Tàu Cộng hiện nay vì quyền lợi họ và quay lưng với Cộng Sản Việt Nam. Nhất là trong giai đoạn Mỹ không có gì ràng buộc với chế độ Cộng Sản Việt Nam trong một hình thức liên minh quân sự cấp khu vực hay đồng minh trên phương diện chủ thuyết tự do.

Chế độ Cộng Sản Hà Nội từng là người thủ lợi trong chính sách thực dụng của người Mỹ khi Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi thì nay họ cũng có thể trở thành nạn nhân trước các quyền lợi không sạch của các siêu cường thế giới trong phạm vi vùng Đông Nam Á.

Trong chính sách bang giao quốc tế, quốc gia nào cũng đặt quyền lợi quốc gia họ lên trên. Tuy nhiên trong chế độ độc tài độc đảng thì Đảng Cộng Sản Việt Nam coi và đặt quyền lợi quốc gia phải nằm bên dưới quyền lợi đảng họ.

Việt Nam đang trong giai đoạn mạt vận, đảng thì hèn, dân thì nhát. Trong lịch sử nước ta, Việt Nam đã từng bị ngoại xâm Phương Bắc cai trị hơn 1.000 năm dài.

Thời điểm này cũng bắt đầu một đêm đen dài không giới hạn cho dân tộc Việt Nam.

Nếu…..

Phạm Hoàng Tùng.




TƯỜNG THUẬT TANG LỄ CỦA CHIẾN SĨ HOÀNG THU
TẠI BRADENTON, FLORIDA

Ngày 28/6/2014, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tampa Bay, được sự hỗ trợ của CĐVN tiểu bang Florida và CĐNVQG Liên Bang Hoa Kỳ đã tổ chức Tang Lễ trọng thể cho chiến hữu Hoàng Thu, một người đã quả cảm tự thiêu ngày 20/6/2014 trước khu gia cư Silver Lake để phản đối giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng, qua đời sáng thứ Hai 23/6/2014 trong bệnh viện vì phỏng quá nặng.

Trên vách chính giữa hội trường được trang trí tấm biểu ngữ: Cộng Đồng Việt Nam Tampa Bay thành kính phân ưu, Chiến sĨ Hoàng Thu, dưới có hàng chữ: Anh Hùng Tử, Chí Hùng Nào Tử, hai bên có hình Ông và bản phóng lớn tờ di ngôn viết tay.

Đoạn văn và hình ảnh bên trên được trích từ:

Cái chết hào hùng của một người lính, can đảm – oanh liệt hơn cả một vị Tướng!!!
Phạm Hoàng Tùng ngày 1/7/2014.


Ông Hoàng Thu, người thực hiện hành động tự thiêu
để phản đối Trung Cộng đưa giàn khoan vào hải phận Việt Nam,
nguyên là một cựu sĩ quan pháo binh
 thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. 
Theo lời gia đình kể lại thì trước khi ra đi vĩnh viễn,
sức khỏe ông bình thường, tâm lý ổn định. 
Đây là bức hình ông Hoàng Thu cùng người vợ thân yêu. 
Ảnh nguồn: Internet.


CÁI CHẾT ĐÁNG KÍNH TRỌNG CỦA ÔNG HOÀNG THU!!!

Lại thêm một người Việt tự thiêu để cương quyết chống đối giàn khoan xâm lược.

Ông Hoàng Thu, 71 tuổi một người Việt sống tại Silver Lake, quận hạt Manatee, tiểu bang Florida – Hoa Kỳ đã tự thiêu bằng cách tưới xăng lên thân mình rồi châm lửa cho cháy như ngọn đuốc sống.

Hành động hy sinh can đảm này vì nước Việt diễn ra vào khoảng 11 giờ thứ Sáu 20/6/2014. Ông bị phỏng nặng và chết tại bịnh viện thuộc khu vực Tampa vào sáng ngày thứ Hai 23/6.

Một trong hai tấm giấy đơn giản mà ông Hoàng Thu để lại có ghi giòng chữ: “Hai yang 981 phải rời khỏi hải phận Việt Nam. Anh hùng tử, chí hùng bất tử”. Bên dưới có chữ ký của ông Hoàng Thu.

Rõ ràng ông Hoàng Thu đã chuẩn bị trước cái chết cao cả này.

Đây là hành động tự thiêu đầu tiên tại hải ngoại kể từ khi giàn khoan xâm lược kéo vào vùng biển Việt Nam.

Trong lúc đó thì Quốc Hội Cộng Sản đang nhóm họp nhưng tuyệt nhiên không dám bàn đến chuyện tống xuất giàn khoan xâm lược của Tàu Cộng, dù rằng nó đã vào hải phận Việt Nam từ ngày 1/5/2014 cho đến nay.

Đây quả là hành vi nhu nhược kinh khiếp của một bộ máy cầm quyền độc đoán.

Và cũng quả là bạo lực của hệ thống cai trị đã làm khiếp sợ tinh thần tranh đấu của đồng bào trong nước.
Ngày 24/6/2014.



Ngày Chủ Nhật 8/6/2014, trên Fb đăng tấm hình một người đàn ông ở Sài Gòn cầm hai tờ giấy trắng có viết các giòng chữ mang nội dung: “Mất Nước Là Chết, Nước Nhà Không Bán, Chỉ Mời Lấy Thảo”.

Hành động của một người dân bình thường đang đứng cạnh một gánh hàng rong nhưng thật đáng kính trọng hơn những tên tướng hèn đang ngồi ở ở Bộ Chính Trị đảng độc quyền với cái ngực đầy nút khoén.

Thời mạt vận của dân tộc Việt nên những kẻ ăn trên ngồi trước, quyền cao chức trọng trong xã hội chỉ là bầy xôi thịt, xảo trá, bại hoại, côn đồ.
Ngày 10/6/2014. 

Giàn Khoan Tàu Cộng Đã Xâm Lăng Biển Nước Ta Được Một Tháng.

Trong một tháng qua bộ máy cầm quyền độc chuyên đã có phản ứng tiêu cực không làm cho giặc sợ phải rút ra khỏi vùng biển nước ta.

Vì sao bộ máy cầm quyền độc chuyên luôn mạnh tay trấn áp dân bằng mọi cách, từ gian trá lật lọng đến bạo hành, nhưng nay lại tỏ thái độ nhẹ tay không đúng với giặc ngoại xâm.

Một là trong hơn nửa thế kỷ thống trị đất nước Việt Nam, chế độ độc tài xa lánh thế giới tự do, dựa quá nhiều vào Tàu Cộng để giữ quyền, và nhất là chỉ lo củng cố bộ máy thống trị độc tài đàn áp chứ không lo tạo sức mạnh dân tộc qua phương cách dân chủ hóa xã hội.

Hai là vì quá tin vào đồng chí đàn anh phương Bắc dựa trên ý thức hệ lỗi thời Xã Hội Chủ Nghĩa, nên không tìm cách liên minh quân sự với các cường quốc thế giới tự do để qua đó trang bị và củng cố thường xuyên sức mạnh quốc phòng hiện đại để sẳn sàng đối phó với ngoại xâm khi xảy đến.

Ngày nay nước đến chân rồi mới nhảy nhưng bản chất tham quyền, độc đoán, chế độ độc tài cũng tự quyết định các phương cách đối phó với giặc mà không tham khảo ý kiến người dân trong và ngoài nước.

Thế nước hiện nay rõ ràng là ta đã thua giặc một bước. Chúng hung hăng, ngạo mạn coi ta không ra gì nên mới tự động kéo giàn khoan vào biển ta và xê dịch di chuyển theo ý muốn mà chính quyền hiện nay chẳng làm gì được chúng.

Trong các phương cách đánh giặc ngoại xâm có hiệu quả thì ưu tiên hàng đầu là dựa vào sức của chính ta.

Ngay từ thời điểm này và cho đến nhiều thập niên về sau, Việt Nam phải có một định chế chính trị ổn định dựa trên nền tảng dân chủ, pháp trị để tạo sức mạnh chống ngoại xâm phương Bắc.

Nhưng làm thế nào để dân chủ hóa Việt Nam trong thời điểm quan trọng này???

Rõ ràng hiện nay chế độ cầm quyền vẫn còn ngoan cố dù đã bất lực trong chiến lược đối phó với giặc.

Còn phong trào dân chủ trong nước thì yếu, chưa nói đến có vài tổ chức dân chủ cuội ở trong và bên ngoài cài vào do bản chất phe đảng tham quyền mạnh hơn là lòng yêu nước chân chính.

Và ý thức yêu nước của dân tộc còn chưa tập trung, do nghèo đói, do sợ hãi, do nghi ngờ lẫn nhau. Đây là căn bịnh truyền nhiễm do chế độc độc tài gây nên trong tâm lý và cuộc sống dân tộc ta.

Bấm like trên Facebook để thể hiện chính kiến mà không dám bấm, huống chi nói đến việc trình bày chính kiến hay xuống đường biểu tình đòi phải dân chủ hóa Việt Nam.

Một quy luật cuộc sống đã rõ là: thời gian và lịch sử không bao giờ chờ đợi chúng ta.

Dân Ukraine mới đây hay dân Đông Âu vào thập niên 1980, sở dĩ có tự do và thoát khỏi vòng nô lệ của các chế độ độc tài Cộng Sản cuồng tín là do họ hiểu được sức mạnh tập trung có chính nghĩa của đám đông quần chúng khát khao tự do. Chứ họ không chờ đợi chế độ độc tài ban ơn hay tự trao quyền tự chủ cho dân tộc. Hay là có cường quốc Mỹ, Pháp, Anh, Nhật tự động kéo đến giúp ta vì động lòng thương xót nỗi khổ của dân ta. 

Ở thời điểm này chính dân ta là lực lượng quan trọng nhất quyết định sự thay đổi hiện trạng yếu thế trước ngoại bang Tàu Cộng. Nếu người Việt trong và ngoài nước bỏ qua cơ hội quý báu này thì việc mất biển, mất nước, cái nhục của một dân tộc yếu kém sẽ rất khó xóa được. Và sợi dây thòng lọng, rất đáng phẫn hận, của chế độ độc tài vẫn quấn quanh cổ dân Việt chúng ta. 
Phạm Hoàng Tùng 31/5/2014.

Nhận Định Về lời Kêu Gọi Mỹ Ủng Hộ Luật Sư Cù Huy Hà Vũ Lập Một Chính Phủ Mới Tại Việt Nam.

Khi Trung Cộng kéo giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông đã đẩy căng thẳng giữa hai đồng chí Cộng Sản lên đến mức cao nhất mà chỉ mấp mé ở bờ vực chiến tranh. Vì Trung Cộng ngoan cố quyết định không lùi bước.

Từ tình hình này đã có không ít người Việt Nam nghĩ và bàn đến việc cần phải có một hiệp định quân sự với Mỹ, hay thành lập một liên minh quân sự với Mỹ.

Thật ra với một đội ngũ lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn xa về mặt chiến lược quốc phòng thì vai trò của Mỹ ở Biển Đông và tại Việt Nam phải được nghĩ đến từ nhiều thập niên về trước chứ không chờ nước đến chân rồi mới nhảy.

Sức mạnh hầu như số một của Mỹ trên thế giới không chối cãi được. Và sức mạnh mới trổi dậy từ vài thập niên nay của Trung Cộng về hải quân, về quân sự, quốc phòng, kinh tế, khi so với Mỹ thì cũng chỉ là một đối thủ yếu hơn nhiều mà phải cần vài thập niên nữa thì Trung Cộng mới mạnh như Mỹ hiện nay. Nhưng lúc đó thì Mỹ đã tiến xa hơn nữa rồi.

Người Việt Nam, đặc biệt là người từng làm việc, sống ở Miền Nam trước năm 1975 đều đã có khá nhiều kinh nghiệm với Mỹ. Họ hiểu cách sống của người Mỹ, hiểu được văn hóa, biết được lịch sử, và nhất là thấm thía được cách Mỹ cư xử với đồng minh chí thân là Việt Nam Cộng Hòa.

Luật Sư Cù Huy Hà Vũ dù là con một công thần của chế độ Cộng Sản trước đây, tuy nhiên ông đã can đảm dấn thân trên đường tranh đấu cho một Việt Nam được dân chủ hóa, đa nguyên đa đảng, và nền pháp trị. Đây là điểm son dành cho một trí thức không khuất phục bạo quyền độc tài.

Trước khi ông Vũ được thả ra khỏi tù và bất ngờ được đưa lên máy bay đi Mỹ thì vợ ông, bà Nguyễn Thị Dương Hà, đã có dịp được chính quyền Cộng Sản cho phép đi Mỹ(ngày 3/7/2013)với danh nghĩa bên ngoài là đi thăm con.

Tất nhiên, khi bà Dương Hà trở về và thăm ông Vũ trong nhà tù thì ông không thể không biết chuyến đi này và các nhân vật mà bà Dương Hà tiếp xúc khi đang ở Mỹ.

Và sự kiện chế độ độc tài bất ngờ thả ông Vũ ra và cho đi Mỹ (ngày 7/4/2014), theo cá nhân chúng tôi, ông Vũ vẫn có thể quyết định ở lại Việt Nam và tiếp tục con đường tranh đấu chứ không phải ngoan ngoãn leo lên máy bay rời Việt Nam như ông đã làm.

So sánh ông Vũ với bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện, chúng ta thấy khác hẳn. Bà Aung San Suu Kyi đã đoạt giải Nobel Hòa Bình vì công trạng của bà tranh đấu tự do cho dân tộc Miến Điện. Trong thời gian 20 năm bị chế độ quân phiệt cực đoan cầm tù, bà đã khôn ngoan và cương quyết tránh mọi chuyến xuất ngoại với lý do chữa bịnh hay thăm hai con trai sống ở Anh Quốc nhằm để khỏi mắc mưu chế độ và rồi không được trở lại quê hương.

Nếu Mỹ muốn can dự sâu hơn vào Việt Nam lúc này, và với sự cố vấn của một số người Việt ở hải ngoại thì không nên sắp xếp cho ông Vũ đi Mỹ trong chuyến đi ngày 7/4/2014. Thay vào đó, áp lực cho Hà Nội thả ông ra và sau đó ông Vũ tuyên bố thành lập chính quyền đối lập ngay trong nước với nhân sự lèo lái ở trong Nam ngoài Bắc và hải ngoại, cùng sự lên tiếng ủng hộ của chính quyền Hoa Kỳ.

Giải pháp này cao tay hơn và tạo thế chính danh, chính nghĩa cho ông Vũ ngay trong nước, cũng như được sự hậu thuẫn của người dân nhiều hơn. Lại tránh được tiếng cho ông Vũ là bị Mỹ nuôi nấng và được Mỹ dựng lên đứng đầu một chính quyền thân Mỹ tại Việt Nam.

Bài học lịch sử ở Miền Nam thời thập niên 1950 và 1960 rất có giá trị cho người Việt hiện nay và sau này vì nó đã làm đổ nhiều máu xương của con dân Việt.

Đầu thập niên 1950, khi ông Ngô Đình Diệm (1901 – 2/11/1963) còn sống lưu vong ở hải ngoại, vừa để trốn tránh Cộng Sản vừa mưu tìm đồng minh cho Việt Nam thì đã có thời gian ông lưu trú tại Mỹ.

Do sự vận động, ít nhất của anh ông là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, Mỹ đã có các cuộc tiếp xúc với ông Diệm, và sau đó ông Diệm được Mỹ chọn làm người lãnh đạo cho Miền Nam, vào lúc mà thế lực của thực dân Pháp đã suy tàn và Mỹ muốn thay Pháp, hiện diện ở Miền Nam, hỗ trợ công cuộc chống lại sự bành trướng của Cộng Sản.

Năm 1954, ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam và sau lên đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng và rồi Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Ngày 1/11/1963, cũng chính Mỹ sai khiến một số tướng lĩnh thân Mỹ tổ chức cuộc đảo chính đẫm máu giết hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu.

Trong tác phẩm “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nhân vật cao cấp ở bên cạnh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào những ngày suy vi của năm 1974, 1975, đã để lại cho hậu thế biết về sự phản bội của Mỹ đối với đồng minh thân thiết là nền Đệ Nhị Cộng Hòa.

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã ghi lại nhiều câu chuyện về thói lật lọng, áp đặt, kẻ cả của Tiến Sĩ kiêm Ngoại Trưởng kiêm Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger. Nhà chính trị người Mỹ gốc Do Thái này đã thể hiện cung cách làm việc chỉ biết con đường công danh thẳng tiến của ông ta, cũng như chỉ biết quyền lợi của siêu cường Hoa Kỳ.

Thế hệ lãnh đạo quốc gia Việt Nam trong tương lai phải là những người đứng thẳng, độc lập trong quan hệ với cường quốc, ngoại bang. Mỹ hay cường quốc nào trên thế giới phải đối xử với người lãnh đạo của một Việt Nam mới dân chủ và tự do, đa nguyên trong tinh thần song phương, bình đẳng, chứ không phải theo chiều dọc từ trên xuống.

Thế hệ lãnh đạo mới của nước Việt Nam trong tương lai còn phải là những người tạo nền móng lâu dài cho xã hội Việt phát triển trên nền tảng pháp trị.

Đã qua rồi thời kỳ của cuộc chiến tranh tương tàn, khi Miền Bắc làm con chốt rẻ cho một ý thức hệ vô thần, phản khoa học, trái với đạo lý truyền thống của dân tộc Việt, gây di hại nặng nề cho đời sống dân tộc ta đến tận ngày hôm nay. Và Miền Nam trở thành tiền đồn chống Cộng mà các cường quốc sử dụng để thể nghiệm các học thuyết quân sự của họ.
Phạm Hoàng Tùng ngày 25/5/2014.


WE PETITION THE OBAMA ADMINISTRATION TO:

Respond firmly to China's provocative acts near the Paracel islands and support Vietnam in protecting its sovereignty.
Dear Mr. President,
For the ultimate interests of the United States, we the Vietnamese American people urge you to consider:
1. Respond more firmly, decisively to China's provocative acts near the Paracel islands and support Vietnam to protect its territorial integrity;
2. Support Dr. Cu Huy Ha Vu to become an opposition leader to the de facto communist Vietnamese government;
3. Support a General Election in Vietnam to be held ASAP which, according to Geneva Accords, should have been held in July 1956;
4. Repeal the Case-Church Amendment.
We believe only a government from the people, by the people, will be working for the people.
Failure to act now would result in disastrous consequences to the US interests once China expands its military presence in Southeast Asia.
Thank you.
Created: May 18, 2014

MỘT PHỤ NỮ GIÀ YẾU TỰ ĐỐT THÂN MÌNH LÀM NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG!!!

Sự kiện Tàu Cộng đưa giàn khoan xâm nhập vùng biển Việt Nam, không những gây xáo trộn quan hệ ngoại giao hai nước Cộng Sản, làm ảnh hưởng đến hòa bình khu vực, tạo tiền đề cho Mỹ trở lại Việt Nam, mà vấn đề này còn gây xáo trộn tâm lý người dân trong nước, sợ bạo loạn, và rồi mới đây nhất là vụ tự thiêu của một Phật tử.

Bà Lê Thị Tuyết Mai tự đốt mình
thành ngọn lửa chống xâm lăng
trước cổng Dinh Độc Lập – Sài Gòn.
Ảnh nguồn: mạng internet.

Lúc 6 giờ sáng ngày 23/5/2014, khi trời mưa nhẹ hột, bà Lê Thị Tuyết Mai sinh năm 1947(67 tuổi) pháp danh Đồng Xuân, sống tại Quận Bình Thạnh – Sài Gòn đã đi taxi từ nhà đến cổng trước Dinh Độc Lập và nhanh chóng tưới thùng xăng 5 lít lên mình rồi bật hộp quẹt gas tự đốt cháy thân thể bà thành ngọn lửa. Bà chết ngay sau đó vài phút dù có những người giữ trật tự trước cổng dinh chạy đến dập tắt lửa.

Bà là một Phật tử ngoan đạo thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nằm bên ngoài sự kiểm soát của chế độ độc tài.

Việc tự thiêu này đã được bà âm thầm chuẩn bị, thùng xăng 5 lít là do bà mang từ nhà, và chính con trai bà cũng không biết ý định hy sinh của bà nhằm đánh lên hồi chuông cảnh tỉnh cả xã hội về việc Trung Cộng mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam qua việc hạ đặt giàn khoan.

Cạnh đó, bà Mai còn mang theo một túi bên mình, và đặt gần chỗ bà tự thiêu, sau biến cố, những người giữ trật tự kiếm thấy trong túi này 7 khẩu hiệu do chính tay bà viết với những nội dung sau:

Nam Mô A Di Đà Phật.

- Nam Mô Đại Từ Bi Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát.

- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mãi mãi trường tồn cùng Dân tộc.

- Đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc.

- Đốt Đuốc soi đường cho Người yêu nước.

- Hậu thuẫn Tuyên Cáo Chống Trung Quốc xâm lăng của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ v.v…

-  
   
Bảy khẩu hiệu trên đây là theo nguồn tin của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc tế, IBIB.           

Tuy nhiên, theo chính quyền Cộng Sản Việt Nam tại Sài Gòn thì các khẩu hiệu có nội dung sau đây:

“ Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc”; “Ủng hộ Cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam”; “Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam”; “Trả lại biển đảo cho Việt Nam”; “Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước”; “Xưa kia cho bà Trưng và Triệu đứng lên đánh giặc”.

Thật cảm động, và xin nghiêng mình bái phục một phụ nữ, một Phật tử, có hành động can đảm hy sinh cho đất nước, làm vang động tiếng nói yêu nước chống ngoại xâm.

Hành động dũng cảm phi thường của một phụ nữ già yếu cao quý hơn gấp trăm lần những kẻ đang ngồi ở vị thế cầm đầu xã hội Việt Nam.


Di ảnh bà Lê Thị Tuyết Mai.
Ảnh nguồn: Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế.
Ngày 24/5/2014.

Một Quốc Gia Trong Tư Thế Chuẩn Bị Chiến Tranh Thường Trực Để Gìn giữ Hòa Bình Thì Không Bao Giờ Thừa.

Ngày 20/5 Quốc Hội bù nhìn của Cộng Sản Việt nhóm họp thảo luận về tình hình giàn khoan HD – 981 của Tàu Cộng xâm nhập vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Chiều tối ngày 21/5 cái Quốc Hội này sẽ có tuyên bố chính thức về tình hình căng thẳng trên Biển Đông hiện nay.

Trong phát biểu lập lờ ngày khai mạc của Nguyễn Sinh Hùng mà đồng bào ta có người kêu là Hùng Hói, Chủ Tịch Quốc Hội, đã khiến cho công luận không rõ nhà nước Cộng Sản Việt Nam quyết đánh hay hay đầu hàng vô điều kiện trước hành động hiếu chiến xâm lăng của giàn khoan Tàu Cộng.

Trong lúc đó, theo tin trên mạng do người dân sống tại vùng biên giới Việt – Hoa cho biết đã có những hoạt động bất thường của quân đội Trung Cộng ở sát biên giới. Nhiều xe tăng, xe cơ giới, các đơn vị quân đội chiến đấu đã di chuyển áp sát vùng biên giới Việt – Hoa.

Điểm lại sự kiện đầu tháng 5/2014 cho chúng thấy, tất cả những hoạt động hiện nay của giặc Tàu đều có sự sắp xếp từ trước. Ngày 30/4, lúc Cộng Sản Việt Nam đang ăn mừng “chiến thắng” của họ khi cướp được Miền Nam, thì ngày 1/5, Tàu Cộng đã kéo giàn khoan HD-981 vào sâu trong trong vùng biển Việt Nam, chỉ cách bờ biển Việt Nam có 200 hải lý. Theo luật biển quốc tế, đây là khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Điều đáng lưu ý là Tàu Cộng thực hiện hành động xâm lược vào thời điểm ngay sát sau ngày 30/4. Họ muốn tỏ cho chế độ độc tài tại Việt Nam ngầm hiểu rằng, cái “kỳ công” chiếm được Miền Nam năm 1975 là do công lao đóng góp to lớn của họ. Do vậy ngày 1/5/2014, khi họ kéo giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam thì đó cũng là sự trả công đương nhiên cho họ, đừng có than phiền hay la làng.  

Tình hình hiện nay cho thấy dân tộc ta đang đứng trước  thách thức rất lớn khi Tàu Cộng ngang ngược coi thường các lân bang trong khu vực, ngạo mạn tiến hành cuộc xâm lược vùng biển nước ta thông qua việc hạ đặt giàn khoan khổng lồ.

Thách thức rất lớn cho dân Việt vì chế độ độc tài hiện nay có sụp đổ thì dân tộc Việt vẫn phải đối đầu với kẻ ngoại xâm bao đời nay từ phương Bắc tràn xuống.

Và khi chế độ Cộng Sản đương thời chưa sụp đổ thì cũng tạo nên thách thức không nhỏ cho dân Việt chúng ta.

Đứng trước nạn ngoại xâm hung bạo, sức mạnh tổng lực của toàn dân Việt trong và ngoài nước là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên với bản chất độc chuyên toàn kiểm, chế độ Cộng Sản hiện nay vẫn coi việc đối phó với quân thù ngoại xâm là việc của Đảng Cộng Sản, của Bộ Chính Trị, của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, của Quốc Hội, mặc dù hàng ngày các công việc của những định chế độc tài nêu trên vẫn tiêu tốn quá nhiều tiền thuế của hàng triệu dân nghèo Việt Nam.

Một quốc gia muốn có hòa bình phải luôn chuẩn bị chiến tranh. Nhất là Việt Nam đang hiện hữu trong khu vực có tầm quan trọng chiến lược của thế giới, đó là nằm bên bờ Biển Đông, một hải lộ huyết mạch, một vùng biển có tiềm năng kinh tế rất lớn, và là một vị trí chiến lược quân sự.

Dù không muốn gây chiến tranh với bất kỳ ai, quốc gia chúng ta, được cai trị bởi bất cứ chế độ nào, đều phải có sự chuẩn bị lâu dài về tiềm lực quân sự để đối phó với bất kỳ tình huống gây chiến tranh do láng giềng khởi động. Huống chi chúng ta đã có lịch sử lâu dài chống ngoại xâm do các đế chế Trung Hoa phát động nhằm thỏa mãn tham vọng bành trướng lãnh thổ và nô lệ hóa dân tộc Việt Nam.

Một hướng đi chiến lược lâu dài để chống ngoại xâm mà không ít người đã nhìn thấy, đó là Việt Nam phải có một cơ cấu chính trị dân chủ, xã hội Việt Nam phải có tự do, con người Việt Nam phải được tôn trọng nhân quyền. Đây là tiền đề mở ra cho xã hội Việt một sức mạnh thống hợp để phát triển và giữ nước.

Nhưng làm thế nào để dân chủ hóa Việt Nam trong tình hình hiện nay khi mà những kẻ cầm đầu chế độ vẫn ngoan cố bám quyền. Đã có quá nhiều lời kêu gọi. Đã có quá nhiều kiến nghị mở đầu bằng hai chữ ”kính thưa”. Phần còn lại, rõ ràng là cần hành động của mọi người Việt. Tuy nhiên trình độ hiểu biết về chính trị, hiểu biết về thực trạng đất nước của người Việt không đồng đều. Người dân trong nước sau nhiều năm sống trong chế độ độc tài nên sinh ra tâm lý sợ hãi, nghi ngờ, và thiếu thông tin.

Một điều quan trọng nữa, đó là trình độ trưởng thành về ý thức dân chủ của một số tổ chức, đảng phái bên trong và bên ngoài Việt Nam còn non kém. Không ít người trong họ chỉ coi cuộc cờ chính trị là mâm xôi thịt, mạnh ai nấy giành phần bỏ vô miệng. Không có nhiều người hoạt động chính trị với lý tưởng cao thượng thương dân thương nước và đặt trung tâm cho một Việt Nam tương lai dựa trên nền tảng pháp trị.
Đăng lên Facebook ngày 21/5/2014.

Chính quyền giải tán người yêu nước biểu tình.

Khi nào người yêu nước biểu tình để giải tán chính quyền nhu nhược???

Cuộc biểu tình ngày 18/5 của dân Việt trên cả nước nhằm chống giặc Tàu Cộng đang xâm lấn vùng biển nước ta từng bước đã bị chính chính quyền ngăn cản mạnh tay và dập tắt không thương tiếc.

Dân Việt không những đang đối diện với giặc ngoại xâm hung bạo, nham hiểm mà còn phải đối phó một mất một còn với kẻ nội thù xảo trá, thâm độc.

Tiếng nói yêu nước của dân Việt đã bị đàn áp, dập tắt thô bạo trên đường phố, trên chính quê hương của dân Việt bởi cái gọi là “chính quyền”. Đến nỗi, không được phép đi ra đường biểu tình thì chỉ ngồi trong nhà cầm giấy viết chữ biểu tình lòng yêu nước. Hành động yêu nước như thế này thì bao giờ đánh đuổi được ngoại xâm???

Kẻ nội thù là lực ngăn rất lớn để dân ta biểu thị lòng yêu nước.

Chính quyền Cộng Sản độc tài không bao giờ, không bao giờ là kẻ đồng hành với dân tộc chống ngoại xâm.

Tính từ ngày 1, 2/5 khi Tàu Cộng kéo giàn khoan khổng lồ HD – 981  vào vùng đặc quyền kinh tế của nước ta thì người dân Việt trong nước chỉ mới tổ chức được hai lần biểu tình vào ngày Chủ Nhật 11/5 và Chủ Nhật 18/5. Đây là chưa tính số lần biểu tình của đồng bào hải ngoại đang ở khắp năm châu.

Tính tới thời điểm hôm nay là 19/5, giặc xâm lược đã vào nước ta được 19 ngày. Lúc đầu chúng chỉ có khoảng 80 chiếc tàu các loại, hình thành hai vòng rào bao bọc bảo vệ giàn khoan hoạt động. Đến nay chúng đã gia tăng đến gần 130 chiếc tàu các loại, có cả tàu chiến đấu tân tiến và hình thành 3 lớp rào bao bọc bảo vệ giàn khoan.

Giặc ngoại xâm tuyên bố ngạo mạn, không liêm sỉ, sẽ không rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.

Trong khi đó kẻ nội thù của dân Việt suốt từ đầu tháng 5 đến nay chỉ huy động có khoảng 30 chiếc tàu với “trang bị hiện đại là loa phóng thanh” và “vẫn kiên trì kêu gọi “bạn” rút ra khỏi” hải phận Việt Nam???
Đăng lên Facebook ngày 19/5/2014.


TẠI SAO CHÚNG TA CHỈ ĐI BIỂU TÌNH VÀO CHỦ NHẬT HÀNG TUẦN???

CÒN TỪ THỨ HAI ĐẾN THỨ BẢY CHÚNG TA LÀM VIỆC NHÀ???

VIỆC NƯỚC HIỆN NAY NHƯ LỬA CHÁY TRONG NHÀ MÀ DÂN MÌNH VẪN THỦNG THỈNH ĐI CỨU NƯỚC.

TRONG KHI ĐÓ GIÀN KHOAN CỦA GIẶC TÀU CỘNG TỪ THỨ HAI ĐẾN THỨ BẢY VẪN KHOAN ĐỀU VÀO LÒNG BIỂN CỦA TA.

NHƯ VẬY SỨC NGĂN CHẬN CỦA TA CHẬM  CHẠP VÀ YẾU HƠN SO VỚI BƯỚC TIẾN CÔNG NHANH CỦA GIẶC TÀU CỘNG.

VÀ TẠI SAO CHỈ CÓ DÂN ĐI BIỂU TÌNH MÀ KHÔNG THẤY KẺ “LÃNH ĐẠO” XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC???

Ở VAI TRÒ “LÃNH ĐẠO” NHỮNG KẺ ĐỨNG ĐẦU ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN PHẢI ĐI ĐẦU TRONG HÀNH ĐỘNG YÊU NƯỚC KHI ĐẤT NƯỚC BỊ XÂM LĂNG.

PHẠM HOÀNG TÙNG.
Đăng lên Facebook ngày 17/5/2014.

Cả hai vụ bạo động mới đây nhất, Bình Dương và Vũng Án, theo nhân chứng tại chỗ thì đám đông khiêu khích và dẫn đầu là những người lạ, không phải dân địa phương. Họ hăm dọa công nhân phải biểu tình theo họ.

Đây là hành động đáp ứng của những người cầm đầu Bộ Chính Trị, họ chưa đáp trả tại Biển Đông, nhưng dùng đám đông hiếu động để đánh trả các cơ sở kinh tế của Tàu Cộng. Có thể một mũi tên bắn luôn 2 con nhạn, Tàu Cộng và Đài Loan. Đài Loan chiếm một đảo Ba Bình lớn nhất tại quần đảo Trường Sa.

Trong chế độ độc chuyên kiểm soát chặt các hành vi của người dân và toàn xã hội, đi biểu tình phải có phép, phải có điều kiện, thì hai vụ bạo động lớn xảy ra liên tiếp hai ngày qua chắc chắn tác giả là đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam.
Ngày 16/5/2014.

BẠO LOẠN TẠI BÌNH DƯƠNG VÀ VŨNG ÁNG – HÀ TĨNH

Đây rõ ràng là hai đòn trả đũa mạnh tay của Cộng Sản Hà Nội đối với đàn anh Bắc Kinh xâm lược. Tàu Cộng sẽ đáp ứng.

Liệu rằng giàn khoan HD – 981 xâm nhập vùng biển Việt Nam mở đầu cho chiến dịch xâm lược Việt Nam và cuộc biến động đập phá tan hoang tại Bình Dương ngày 13/5, bạo loạn giết người tại Vũng Áng ngày 14/5 khi đặt lên bàn cân thì ai lợi ai hại???

Sẽ còn biến động vì dã tâm Tàu Cộng là một chiến lược xâm lược lâu dài, và chế độ Cộng Sản Hà Nội là điểm yếu nhất trong Biển Đông.
Ngày 15/5/2014.

GẦN NỬA THÁNG TRÔI QUA RỒI, GIÀN KHOAN CỦA TÀU CỘNG XÂM LƯỢC VẪN ĐỊNH VỊ KIÊU NGẠO TRONG HẢI PHẬN VIỆT NAM.

DÙNG LOA KÊU GỌI TÀU CỘNG RÚT??? TRONG KHI TA KÊU GỌI THÌ TÀU CỘNG  VẪN KHOAN (CÓ HOẠT ĐỘNG KHOAN ĐÊM HAY KHÔNG THÌ CHƯA BIẾT).

KỀM CHẾ VÀ TÌM GIẢI PHÁP NGOẠI GIAO??? KHI TA KỀM CHẾ THÌ TÀU CỘNG VẪN TIẾP TỤC KHOAN. CÒN GIẢI PHÁP NGOẠI GIAO THÌ ĐẾN THỜI ĐIỂM CỤ THẾ NÀO MỚI CÓ KẾT QUẢ, 1 TUẦN, 2 TUẦN, MỘT THÁNG?? TRONG LÚC ĐÓ GIÀN KHOAN CỦA GIẶC VẪN HOẠT ĐỘNG.

ĐƯA VẤN ĐỀ LÊN HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HIỆP QUỐC??? KHI NÀO THÌ LHQ TIẾP NHẬN HỒ SƠ??? KHI NÀO THÌ ĐẠI HỘI ĐỒNG NHÓM HỌP (CÒN CHUYỆN NGHỈ CUỐI TUẦN NỮA). THỜI GIAN CHỜ CÓ KẾT QUẢ LÀ BAO LÂU, MỘT THÁNG HAY 3 TUẦN??? TRONG LÚC ĐÓ THÌ GIÀN KHOAN TÀU CỘNG VẪN KHOAN.

RÕ RÀNG KHÔNG THỂ CHỜ ĐỢI. KHÔNG THỂ KỀM CHẾ. KHÔNG THỂ TÌM GIẢI PHÁP NGOẠI GIAO. ĐÂY LÀ THẾ RẤT YẾU TRONG KHI TÀU CỘNG VẪN TỎ THÁI ĐỘ HIẾU CHIẾN XÂM LƯỢC HÀNG NGÀY TRONG HẢI PHẬN CHÚNG TA.

THÁI ĐỘ CỦA NHỮNG KẺ CẦM ĐẦU ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY KHÔNG RÕ RÀNG VÀ THIẾU QUYẾT ĐOÁN TRONG GIAI ĐOẠN THẬT HỆ TRỌNG CỦA ĐẤT NƯỚC.

PHẠM HOÀNG TÙNG.
Đăng lên Facebook ngày 14/5/2014.

Tổng quát cách phân định chủ quyền vùng biển
của một nước ven biển
theo luật pháp quốc tế.
Ảnh nguồn: Vi.wik.

ĐẾ CHẾ TRUNG CỘNG NGÀY NAY
ĐANG DỌN ĐƯỜNG ĐI THEO
CUỒNG VỌNG BÀNH TRƯỚNG
LÃNH THỔ LÃNH HẢI
CỦA HITLER NGÀY TRƯỚC

Tình hình hiện nay tại vùng Biển Đông Nam Á đã chứng tỏ quá rõ tham vọng bành trướng liều lĩnh của Trung Cộng. Họ đã và đang lấn chiếm từng bước và bằng nhiều phương tiện vùng lãnh hải của nước ta, và Phi Luật Tân (Philippines) .

Tham vọng thâm hiểm của đế chế mới được Mao Trạch Đông thành lập từ năm 1949 tại Trung Hoa không chỉ mang mục đích hiện thời mà còn nuôi dưỡng lâu dài ý đồ thôn tính một cách ngang ngược đất và biển của Việt Nam.

Quê hương chúng ta đang đứng trước một thách thức rất lớn, một mối nguy rất đáng lo ngại khi lại đối diện với một kẻ thù truyền kiếp hung hiểm ở ngay bên cạnh.

Liệu tham vọng của Trung Cộng có thể thực hiện trong bối cảnh chính trị thế giới ngày nay? (Xin đọc thêm ở Mục Thời Cuộc trong blog này).

Giặc Phương Bắc
Kẻ Thù Truyền Kiếp Của Dân Tộc Việt Nam

Sự ngẫu nhiên của địa hình biên giới đã đặt quốc gia và dân tộc chúng ta ở ngay sát cạnh một nước khổng lồ về dân số và diện tích lãnh thổ. Cuộc sống lân cận này đã gây khó khăn trở ngại rất lớn cho Việt Nam trong suốt chiều dài lập quốc và kiến quốc.

Cách nay hơn 2.000 năm, khi dân tộc chúng ta còn non trẻ và lãnh thổ nhỏ hẹp thì đã thường xuyên bị các triều đình chuyên chế phong kiến Trung Hoa tấn công, xâm lược, đô hộ, dự tính đồng hóa, xóa bỏ cuộc sống dân tộc ta với nhiều âm mưu tinh ranh, thâm hiểm, ác độc. (Thời kỳ Bắc Thuộc kéo dài từ năm 111 trước Công Nguyên – đến năm 939 sau Công Nguyên, tổng cộng hơn 1.000 năm).

Họ bắt thanh niên trai tráng Việt lên rừng tìm ngà voi, xuống biển sâu mò ngọc trai cung phụng cho giai cấp quý tộc Trung Hoa đang đô hộ nước ta.

Phụ nữ Việt thì bị giặc Tàu cưỡng ép phải lấy chồng Tàu nhằm xóa bỏ nòi giống dân tộc Việt.

Chính sách cai trị dã man của giặc phương Bắc nhằm tận diệt các hoạt động của người Việt quyết chống đối để cứu quốc.

Một ngàn năm đô hộ tàn bạo không lường của giặc Tàu khiến cho dân ta phải rên xiết, cùng cực khổ đau, nhục nhã với hờn vong quốc đeo nặng vào trong lòng của những người Việt ái quốc.

Tuy nhiên trong suốt một ngàn năm thống trị bạo ngược trên đầu trên cổ dân ta, giặc Tàu cũng không thể ăn ngon ngủ yên vì phải thường xuyên đối phó vất vả với nhiều cuộc nổi dậy, tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc chúng ta. Điều này thể hiện tinh thần cứu quốc để phục quốc bền bỉ trong lòng người dân Việt.

Những cuộc quật khởi rất vẻ vang, kiên định của các anh hùng liệt nữ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Thi Sách, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (ông mất năm 791), Ngô Quyền…đã tô đậm sự tự hào cho nòi giống Việt quyết không hề khoanh tay, cúi đầu khuất phục giặc phương Bắc có lòng tham không đáy.

Một ngàn năm giặc Tàu cai trị và quyết liệt đồng hóa nhưng không thành công chứng minh rằng dân tộc ta thông minh, tài giỏi và ý chí vùng dậy rất mãnh liệt để sống còn và phát triển cho đến hôm nay.

Các sử kiện trung thực và quý báu này cho thấy giặc phương Bắc đã thua dân Việt chúng ta trong nỗ lực quyết chí đấu tranh để tồn tại.

Sau thời kỳ u tối 1.000 năm lệ thuộc giặc phương Bắc, lúc sống trong thời kỳ độc lập tự chủ từ thế kỷ thứ 10 trở đi, dân tộc chúng ta cũng đã bao phen đánh bại các cuộc xâm lược của giặc phương Bắc khi họ muốn xây lại mộng bá quyền.

Khi đế quốc Nguyên Mông đang trên đà lớn mạnh, họ đã đánh thắng nhiều cường quốc như Nga và ngay cả vương triều Tống của Trung Hoa, nhưng khi tiến xuống phía Nam để thôn tính Việt Nam thì đã bị dân ta ba lần đánh bại nhục nhã ê chề.

Đất nước Trung Hoa rộng lớn đông dân, binh hùng tướng mạnh nhưng lại bị đánh chiếm và bị cai trị bởi một nước Mông Cổ nhỏ hơn, trong lúc đó Việt Nam vẫn giữ được trọn vẹn nền độc lập khi chiến thắng đạo binh Mông Cổ thiện chiến nhất thế giới vào thời đó, thế kỷ 13.

So sánh điều này chứng tỏ dân Việt chúng ta có ý chí chiến đấu dũng cảm, mưu lược và tài giỏi hơn dân Trung Hoa.

Phạm Hoàng Tùng.
{1}CẦN BIẾT ĐẶC ĐIỂM GIÀN KHOAN HD – 981, MỘT VŨ KHÍ XÂM LƯỢC CÓ TÍNH CHIẾN LƯỢC TRÊN BIỂN ĐÔNG CỦA TÀU CỘNG!!!

http://www.hennhausaigon2015.com/2014/05/15/45563/
Lê Văn Kỳ says:
May 16, 2014 at 12:53 am
GIỜ DỨT ĐIỂM CHẾ ĐỘ VIỆT CỘNG .

Giàn khoan dầu Haiyang Shiyou 981(HD 981)là một giàn khoan bán chìm (khi vào vị trí, giàn khoan được bơm nước biển vào các cột rỗng và pông tông để nhận chìm 1/2 giàn khoan)đây là dàn khoan thuộc thế hệ thứ 6 . Có chiều dài 116 m,rộng 89m, cao 117m, và nặng 31 ngàn tấn(có bãi đổ trực thăng).

Giàn khoan có kích cỡ 1 sân đá bóng. HD 981 được trang bị 8 máy phát điện 44 ngàn kilowatt(đủ đáp ứng cho nhu cầu điện 1 thành phố với mật độ dân cư 200 ngàn người). Động cơ đẩy tương đương 5 đầu máy xe lửa. Các động cơ đẩy sẽ chống lại tác động từ gió, sóng và giòng chảy của đại dương. Lượng tiêu hao dầu diesel tù 100 đến 150 tấn/ngày hoặc 200 tấn trong điều kiện mưa bão, do đó giàn khoan có trang bị dầu với dung tích 4 ngàn 5 trăm tấn đủ cho máy phát điện chạy liên tục 30 ngày.

Giàn khoan Haiyang Shiyou 981 có thể khoan độ sâu dưới mặt nước là 3 km. Trị giá giàn khoan hơn 1 tỷ Mỹ kim. Ước tính mỗi ngày giàn khoan ngốn chi phí từ 981 ngàn đến 1 triệu 500 ngàn Mỹ kim .

Sống trên giàn khoan có 160 thủy thủ chính thức.

Giàn khoan HD 981 là một “vũ khí chiến lược”. Giàn khoan được xử dụng như 1 “lãnh thổ di động” nhằm phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng của Trung cộng.

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Cộng Sản Sụp Đổ Tan Rã Vì Lòng Dân Không Theo


ĐẾ QUỐC CỘNG SẢN VĨ ĐẠI - KHẮC NGHIỆT
SUY KIỆT SỤP ĐỔ TAN RÃ
VÌ LÒNG DÂN KHÔNG THEO

                  Cách đây hai ngàn năm, đế quốc La Mã hùng mạnh nhất thế giới đã thống trị nhiều dân tộc yếu kém hơn trong suốt 400 năm sau Tây Lịch, sau đó còn kéo dài ở phía Ðông (đế quốc Ðông La Mã) cho đến năm 1453. Thời kỳ nhân loại chưa có ý thức nhân quyền rõ rệt, và ý thức tự do, dân chủ chưa phát triển nên đế quốc La Mã đã dùng bạo lực ngự trị xa xỉ, kiêu căng trên cuộc sống lầm than, khổ sở của nhiều dân tộc khác.

       Vào đầu thế kỷ 20 khi Lenin cho thành lập đế quốc Cộng Sản Liên Sô, so với nhân lực, cơ cấu tổ chức, và vũ khí thời La Mã thì đế quốc Cộng Sản Liên Sô hùng mạnh hơn với các trang bị quân sự hiện đại có tầm sát thương - tàn phá -  hủy diệt hàng loạt. Ngoài vũ khí hiện đại, tân đế quốc này còn được hỗ trợ bởi một “học thuyết” khá hoàn bị về mặt lý thuyết, dù vòng vèo-mâu thuẫn-tối nghĩa về nội dung, ngay từ lúc khởi đầu dựng đế quốc.

       Tuy nhiên đế quốc toàn-kiểm lạc hậu - đen tối - bạo trị do Lenin lập nên không kéo dài đến 100 năm.

       Sở dĩ ngày nay, các đế quốc, thực dân không thể kéo dài bạo lực thống trị và sớm tan rã - tuyệt diệt là vì nhân loại đã trưởng thành, tinh thần phản kháng mạnh dạn hơn khi trực diện với hệ thống chính trị chuyên chế, độc tài, đàn áp; và lòng khát khao tự do, dân chủ mãnh liệt nhiều hơn.

       Sự giải thể, tan rã, diệt vong của đế quốc Cộng Sản Liên Sô là khải hoàn ca trường cửu cho nền văn minh nhân loại!!!

A/ DIỄN BIẾN CƠN ÐẠI ÐỊA CHẤN CHÍNH TRỊ TỪ PHÍA CHUYÊN CHẾ LẠC HẬU LÀM HƯNG PHẤN NHÂN LOẠI QUAN TÂM ÐẾN NHÂN QUYỀN
                      
I/ TÌNH HÌNH CHUNG

Gorbachev năm 1987.
Ảnh nguồn:wiki.

                  Hậu quả sụp đổ Liên Bang Sô Viết và thành lập các quốc gia độc lập đã có dấu hiệu từ đầu năm 1985. Sau nhiều năm đeo đuổi xây dựng sức mạnh quân sự với chi phí quá tốn kém khiến ảnh hưởng đến chương trình phát triển quốc nội, và kinh tế đình trệ.

       Các nỗ lực cải cách thất bại, chiến tranh ở Afghanistan kéo dài, hao tốn, mất chính nghĩa dẫn tới nỗi bất mãn trong toàn xã hội, đặc biệt tại ba nước Baltic và Ðông Âu.

       Sự tự do xã hội và chính trị lớn hơn được lãnh đạo Sô Viết Mikhail Gorbachev đề ra đã tạo nên bầu không khí chỉ trích công khai chế độ Moscow. Việc giảm giá dầu gây nhiều chú ý trong năm 1985 và 1986, việc thiếu dự trữ ngoại tệ trong những năm sau đó để mua ngũ cốc làm ảnh hưởng sâu sắc đến hành động của giới lãnh đạo Sô Viết.

       Vài nước Cộng Hòa XHCN Sô Viết bắt đầu kháng cự lại hệ thống kiểm soát từ trung ương, và dân chủ hóa nhiều hơn dẫn đến suy yếu chính quyền trung ương. Thâm thủng cán cân thương mãi Liên Sô khiến cho kéo dài tình trạng khô cạn ngân khố nhà nước, sau cùng đưa đến phá sản. Liên Bang Sô Viết sụp đổ năm 1991 vào lúc Boris Yeltsin chiếm được quyền lực, sau khi xảy ra một cuộc đảo chính thất bại nhằm lật đổ Gorbarchev có đầu óc cải cách.
  
II/ GORBACHEV NẮM QUYỀN

       Mặc dù cải cách ở Liên Sô ngày càng trở nên mạnh hơn giữa các năm 1969 và 1987, việc thay đổi thế hệ cầm đầu tạo ra một xung lực mới cho cải tổ. Chiến tranh ở Afghanistan thường được coi “Chiến Tranh Việt Nam” của Liên Sô, dẫn đến nỗi bất bình trong công chúng đối với chế độ Moscow. Cũng vậy, tai họa nguyên tử Chernobyl{1}trong năm 1986 tạo thêm tốc độ cho cải tổ glasnostperestroika của Gorbachev, sau cùng đi ra ngoài tầm kiểm soát gây cho hệ thống Liên Sô sụp đổ.
          
       1/ Glasnost: Là sự công khai tối đa, cởi mở, và minh bạch trong hoạt động của tất cả định chế chính quyền Liên Bang Sô Viết, cùng với tự do thông tin, được Mikhail Gorbachev chủ trương thực hiện vào nửa sau thập niên 1980.

       Từ ngữ này được chuyển dịch từ chữ Nga: Гласность, và thường xuyên được Gorbachev sử dụng để chỉ rõ các chính sách ông tin có thể giảm bớt tham nhũng, hư hỏng, đồi bại trên thượng tầng Ðảng Cộng Sản Liên Sô và chính quyền Sô Viết, và điều tiết việc lạm dụng quyền cai trị trong Ủy Ban Trung Ương.

       Lyudmila Alexeyeva, người bất đồng chính kiến vừa là nhà hoạt động nhân quyền Nga giải thích glasnost: “Đã có trong ngôn ngữ Nga từ nhiều thế kỷ. Danh từ này cũng đã được sử dụng trong tự điển và sách về luật pháp. Ðây là từ ngữ thường chỉ đến một tiến trình, bất cứ tiến trình công lý của nền cai trị được hướng dẫn công khai”.

       Glasnost cũng có thể chỉ đến thời kỳ đặc biệt trong lịch sử Liên Sô trong suốt thập niên 1980 khi có ít kiểm duyệt và tự do thông tin nhiều hơn.

Con tem bưu phí Sô Viết năm 1988:
 Perestroika tiếp tục sự nghiệp Cách Mạng Tháng Mười
 (giòng chữ bên trái);
Tăng Tốc, Dân Chủ Hóa, Glasnost (giòng chữ phải).
Ảnh nguồn: wiki.
               
                  2/ Perestroika: Chữ Nga là Перестройка, bây giờ được sử dụng trong Anh Ngữ để nói đến cải cách kinh tế và chính trị được lãnh đạo Sô Viết Mikhail Gorbachev giới thiệu vào tháng 6/1987. Nghĩa đen của perestroika là “tái cấu trúc” để chỉ sự tái cấu trúc nền kinh tế Sô Viết. Perestroika thường được lập luận như một nguyên nhân làm sụp đổ lực lượng chính trị Cộng Sản ở Liên Sô và Ðông Âu, và cũng làm kết thúc Chiến Tranh Lạnh.

       Trong tháng Giêng năm 1987, Gorbachev kêu gọi từ trong đảng đến nhân dân nên thực hiện dân chủ hóa. Theo ông, dân chủ hóa có nghĩa là giới thiệu thêm nhiều ứng viên (chứ không phải đa đảng) trong các cuộc bầu cử Sô Viết (ủy ban nhân dân) và đảng bộ địa phương. Trong đường hướng này, Gorbachev hy vọng làm trẻ lại sinh lực đảng với các nhân sự tiến bộ, những người có thể thi hành chính sách cải cách do ông đề ra. 

       Một chống đối chính yếu xảy ra khi Gorbachev tìm cách hủy bỏ Ðiều 6 Hiến Pháp Liên Sô, trong đó diễn tả ưu thế của Ðảng Cộng Sản trên tất cả định chế xã hội. Ðối diện với sức ép đòi không được hủy bỏ Ðiều 6, Gorbachev cần đồng minh chống lại những người chủ trương bảo thủ trong đảng, sau cùng Gorbachev đạt được sự hủy bỏ Ðiều 6 tại phiên họp toàn thể Ủy Ban Trung Ương Ðảng tháng 2/1990.

Tranh tuyên truyền cho Perestroika
với hình Mikhail Gorbachev.
Ảnh nguồn: wiki.
     
       3/ Thay Ðổi Thế Hệ Lãnh Ðạo

       Sau nhiều năm đình trệ, “tư duy mới” của thành phần apparatchiks Cộng Sản trẻ hơn bắt đầu nổi dậy. Theo sau cái chết của Konstantin Chernenko vì già yếu, Bộ Chính Trị bầu Mikhail Gorbachev vào vị trí Tổng Bí Thư Liên Sô tháng 3/1985 đánh dấu thời kỳ nổi dậy của thế hệ lãnh đạo mới.

       Dưới thời Gorbachev, các nhà kỹ trị (giới lãnh đạo chính trị xuất thân từ ngành kỹ thuật) có khuynh hướng cải tổ, và tương đối trẻ, những người khởi đầu nghề nghiệp trong giai đoạn cực thịnh của chủ trương phế bỏ Chủ Nghĩa Stalin của Nikita Khrushchev (1953-1964), nhanh chóng cũng cố quyền lực trong Ðảng Cộng Sản Liên Sô, cung cấp xung lực mới cho việc tự do hóa kinh tế và chính trị, và tốc độ vun đắp mối quan hệ, thương mãi nồng ấm với Phương Tây. 

       Apparatchik, từ ngữ thông thường trong xã hội Nga chỉ đến một quan chức chuyên nghiệp, toàn thời của Ðảng Cộng Sản hay chính quyền Sô Viết. Ðây thường là từ ngữ chỉ trích.

       Các thành viên đảng bộ hay apparatchik thường được thuyên chuyển giữa các vùng trách nhiệm khác nhau và lại không có hay ít được huấn luyện thật sự cho lĩnh vực trách nhiệm mới của họ.

                  4/ Ðối Ngoại


       Tổng Thống Hoa Kỳ Jimmy Carter (sinh ngày 1/10/1924, Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ t 1977 đến 1981) chính thức kết thúc chính sách dịu bớt căng thẳng bằng cách trợ giúp quân sự cho Tổng Thống Pakistan Muhammad Zia-ul-Haq (1924 –1988, cũng là nhà lãnh đạo quân sự Pakistan{2}từ tháng 7/1977 tới khi ông chết vào tháng 8/1988).

       Muhammad Zia-ul-Haq lại tài trợ cho Phong Trào Mujahideen{3}chống ảnh hưởng Liên Sô ở Afganistan, đây được coi là cái cớ khiến cho Liên Sô xâm lược Afghanistan 6 tháng sau đó, với mục đích ủng hộ chính quyền Afghanistan do Ðảng Dân Chủ Nhân Dân kiểm soát.

       Căng thẳng giữa hai siêu cường gia tăng trong suốt thời gian này, khi Carter cho lịnh cấm vận thương mãi đối với Liên Sô và nói chiến tranh xâm lược của Liên Sô vào Afghanistan là “một đe dọa nghiêm trọng nhất đối với hòa bình từ sau Ðê Nhị Thế Chiến”.

       Căng thẳng Ðông – Tây gia tăng trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng Thổng Mỹ Ronald Reagan (Ronald Wilson Reagan, 1911 – 2004, Tổng Thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989), đạt đến mức độ chưa từng thấy từ Cuộc Khủng Hoảng Hỏa Tiễn Cuba năm 1962 khi ông Reagan gia tăng chi phí quân sự của Mỹ lên đến 7% của GDP (Gross Domestic Product/tổng sản phẩm xã hội hay tổng sản phẩm quốc dân làm ra được của một quốc gia).

       Ðể đối đầu với việc gia tăng xây dựng quân sự của Mỹ, Liên Sô tăng chi phí quân sự lên đến 27% của GDP và đóng băng sản xuất hàng dân sự ở mức năm 1980.

       Reagan cung cấp thêm cho các chiến sĩ Afghanistan loại hỏa tiễn Stinger khiến cho tốn kém chi phí đến một tỷ Mỹ Kim hàng năm, trong khi đó Liên Sô hao tốn tới 8 tỷ Mỹ Kim hàng năm cho quân sự.  
    
       Sau cùng, ông Reagan cũng ngăn cản tích cực khả năng Sô Viết bán khí đốt cho Châu Âu đồng thời làm việc tích cực để giữ giá khí đốt thấp nhằm làm cho giá dầu Liên Sô bị thấp như thế gây cho họ thiếu hụt thêm ngoại tệ.

       “Chiến lược tấn công” lâu dài này “mâu thuẫn với phòng thủ và phản ứng một cách chủ yếu của chiến lược ngăn chận” gia tốc sự sụp đổ của Liên Sô bằng việc thúc đẩy chi phí quá mức so với nền tảng kinh tế yếu kém của thể chế Cộng Sản này.

       Vào lúc Gorbachev đang dẫn đầu trong diễn trình dẫn đến tháo bỏ nền kinh tế chỉ huy cứng rắn của Liên Sô xuyên qua các chương trình như glasnost (cởi mở chính trị), uskoreniye (gia tốc phát triển kinh tế), và perestroika (tái cấu trúc kinh tế và chính trị) được thông báo năm 1986, thì kinh tế Sô Viết chịu đựng cả về lạm phát tiềm ẩn và thiếu hụt cung ứng tràn lan bị thiệt hại bởi thị trường chợ đen đã phá hủy nền kinh tế chính thức.

       Ngoài ra, những tốn kém hoang phí vô độ trong cương vị siêu cường - quân sự, chương trình không gian, trợ giúp cho các quốc gia bồi thần - nằm bên ngoài qui mô nền kinh tế Sô Viết. Làn sóng mới của kỹ nghệ hóa dựa trên kỹ thuật thông tin để lại cho Sô Viết vô vọng khi so với kỹ thuật Phương Tây và uy tín về chất lượng hàng hóa, khiến họ ở trong tình trạng tiếp tục thua kém các định chế dân chủ tự do ở Phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ. 

Hỏa tiễn Stinger hay FIM-92 Stinger
là loại hỏa tiễn đất đối không tự tìm mục tiêu
bằng tia hồng ngoại, mang xách bằng tay tiện lợi,
được phát triển tại Hoa Kỳ
và đưa vào sử dụng từ năm 1981.
Ngoài quân đội Hoa Kỳ,
Stinger đã được 29 quốc gia khác sử dụng.
Theo thống kê Stinger đã bắn hạ
270 máy bay.
Trong hình, FIM-92 Stinger đang được binh sĩ Mỹ
thực tập trên lãnh thổ của mình.
Ảnh nguồn: wiki.

III/ CẢI TỔ

       Suốt thời kỳ đầu tiên (1985-1987) trong thời gian nắm quyền của Gorbachev, ông nói về sửa đổi kế hoạch tập trung, nhưng không thực hiện bất kỳ thay đổi căn bản thật sự nào. Kế đến Gorbachev và toán cố vấn kinh tế giới thiệu thêm các cải tổ căn bản hơn được biết là perestroika.
  
       Tại khóa họp toàn thể Ủy Ban Trung Ương Ðảng Cộng Sản Liên Sô tháng 6/1987, Gorbachev trình bày các căn bản này của ông đặt nền tảng chính trị cho cải tổ kinh tế trong giai đoạn còn lại của sự hiện hữu Liên Sô.

       Vào tháng 7/1987, Sô Viết Tối Cao Liên Sô thông qua Luật Về Doanh Nghiệp Nhà Nước. Luật qui định doanh nghiệp nhà nước tự do xác định mức độ sản lượng dựa trên nhu cầu khách hàng và các đối tác kinh doanh khác. Các doanh nghiệp phải hoàn thành lịnh nhà nước nhưng có thể loại bỏ chỉ tiêu sản lượng còn lại khi thấy thích hợp. Các doanh nghiệp mua nguyên liệu từ người cung cấp với giá hợp đồng được thương lượng. Theo luật này, doanh nghiệp trở nên tự lực về tài chính, đó là phải đứng ra lo chi phí sản xuất (lương, thuế, cung cấp, và dịch vụ nợ) thông qua lợi nhuận của cơ sở họ quản trị.

       Chính quyền không còn cứu giúp những cơ sở kinh tế quốc doanh thua lỗ đối diện với tình trạng phá sản. Sau cùng luật thay đổi quyền kiểm soát trên các hoạt động doanh nghiệp từ các bộ đến tập thể công nhân được bầu chọn. Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước (Gosplan) có trách nhiệm cung cấp hướng dẫn tổng quát và những ưu tiên đầu tư của quốc gia chứ không soạn thảo chi tiết các kế hoạch sản xuất.

       Luật Về Hợp Tác được ban hành trong tháng 5/1988 có lẽ cấp tiến nhất trong cải tổ kinh tế suốt thời kỳ đầu kỷ nguyên Gorbachev. Ðây là lần đầu tiên từ Chính Sách Tân Kinh Tế của Vladimir Lenin, luật cho phép sở hữu tư các công việc trong khu vực ngoại thương, chế tạo sản xuất và dịch vụ. Dưới điều khoản của luật này, nhà hàng, cửa hàng và nhà máy sản xuất hợp tác trở thành một phần trong xã hội Sô Viết vốn không coi trọng quyền tư hữu cá nhân.

       Glastnost dẫn đến tự do ngôn luận lớn hơn và báo chí ít bị kiểm soát. Có thể mục tiêu chính của Gorbachev trong quyết định thi hành chủ trương glasnost nhằm gây sức ép với phe bảo thủ, những người chống đối chính sách tái cấu trúc kinh tế của ông. Mặc dù ông cũng hy vọng các tầm mức khác nhau về cởi mở, thảo luận và tham dự, toàn thể người dân Liên Sô sẽ ủng hộ sáng kiến cải tổ của ông.
  
       Hàng ngàn tù nhân chính trị và người bất đồng chính kiến được phóng thích. Khoa học xã hội Sô Viết trở nên tự do trong việc khám phá và xuất bản nhiều chủ đề trước đây hoàn hoàn bị giới hạn, bao gồm hướng dẫn thăm dò, thu thập ý kiến công chúng. Trung Tâm Toàn Liên Bang Nghiên Cứu Ý Kiến Công Chúng (VCIOM) - định chế nổi bật nhất trong vài tổ chức thu thập ý kiến quần chúng được bắt đầu vào lúc đó - được ra mắt công chúng.

       Hồ sơ nhà nước được hé mở cho việc tìm kiếm, nghiên cứu, và một số thống kê xã hội bị giữ bí mật trước đây trở nên công khai cho công cuộc tra cứu, tìm hiểu và công bố những đề tài nhạy cảm như không cân xứng về lợi tức, tội ác, tự tử, phá thai, và hài nhi tử vong. Trung tâm đầu tiên nghiên cứu phái tính được khánh thành trong phạm vi Học Viện Kinh Tế - Xã Hội Nghiên Cứu Dân Số Con Người.

       Tháng Giêng/1987, Gorbachev kêu gọi dân chủ hóa, sự thâm nhập các yếu tố dân chủ như các cuộc bầu cử có nhiều ứng viên vào trong tiến trình chính trị Sô Viết. Một hội nghị năm 1987 được ông Leonid Abalkin triệu tập, ông là kinh tế gia Sô Viết và cũng là cố vấn cho Gorbachev, hội nghị kết luận: “Sự chuyển đổi sâu sắc việc quản trị kinh tế không thể thành hiện thực khi không có thay đổi tương ứng trong hệ thống chính trị”. 

       Leonid Abalkin hay Leonid Ivanovich Abalkin sinh năm 1930 ở Moscow, trở thành Giám Ðốc Học Viện Kinh Tế thuộc Hàn Lâm Viện Khoa Học Sô Viết với trách nhiệm đặc biệt về kinh tế. Sau này ông cũng làm cố vấn cho Tổng Thống Yeltsin. Dưới thời Gorbachev, ông là một trong những nhân vật chủ trương cải cách kinh tế nhanh chóng. Năm 1998 ông là thành viên Nhóm Khủng Hoảng Kinh Tế. Hầu hết các tác phẩm xuất bản của ông ưu tư đến các vấn đề lý thuyết kinh tế chính trị XHCN.

       Vào tháng 6/1988 tại Ðại Hội Ðảng XIX Ðảng Cộng Sản Liên Sô, Gorbachev đề ra những cải tổ triệt để, điều này có nghĩa giảm bớt quyền kiểm soát của đảng đối với bộ máy chính quyền. Trong tháng 12/1988, Sô Viết Tối Cao chấp thuận thành lập cơ quan Các Ðại Biểu Quốc Hội Nhân Dân, theo đó các tu chính hiến pháp được xác định như cơ quan lập pháp mới của Liên Bang Sô Viết.
 
       Các cuộc bầu cử vào quốc hội được tổ chức khắp Liên Sô trong tháng 3 và 4/1989. Gorbachev với chức vụ Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản có thể bị thúc ép từ nhiệm bất cứ lúc nào nếu thành phần có ảnh hưởng trong đảng không thỏa mãn với ông. Ðể xúc tiến cải tổ bị đa số trong đảng phản đối, Gorbachev muốn củng cố quyền lực trong vị trí mới, Tổng Thống Liên Bang Sô Viết, độc lập với Ðảng Cộng Sản và các hội đồng Sô Viết và kẻ giữ vai trò này chỉ có thể bị luận tội trong trường hợp vi phạm luật trực tiếp.

       Ngày 15/3/1990, Gorbachev được bầu vào chức vụ Tổng Thống đầu tiên. Cùng lúc đó hiến pháp thay đổi để tước bỏ quyền lực chính trị của Ðảng Cộng Sản Liên Sô.   
     
B/ NHỮNG HẬU QUẢ NGOÀI TIÊN LIỆU

       Những cố gắng của Gorbachev để sắp xếp hợp lý hóa hệ thống Cộng Sản đưa ra những hứa hẹn, nhưng sau cùng chứng tỏ không thể kiểm soát được và đưa đến hậu quả với hàng loạt biến cố làm cho Liên Sô sau cùng bị giải thể. Những ý định khởi đầu như các công cụ chống đỡ nền kinh tế Sô Viết, các chính sách perestroika và glasnost chẳng mấy chốc dẫn đến hậu quả không chủ tâm.  

       Sự nới lỏng dưới chính sách glasnost dẫn tới hậu quả Ðảng Cộng Sản mất đi quyền siết chặt phương tiện truyền thông. Trước nhiều lúng túng của chính quyền, giới truyền thông bắt đầu phơi bày các vấn đề xã hội, kinh tế nghiêm trọng mà chính quyền Sô Viết từ lâu phủ nhận và tích cực che giấu.

       Các vấn đề được phơi bày ra làm gia tăng chú ý như tình trạng nhà ở nghèo nàn, tình trạng nghiện rượu, lạm dụng ma túy, ô nhiễm, các nhà máy quá cũ thời Stalin còn lại, và tình trạng tham nhũng từ nhỏ đến trầm trọng, tất cả bê bối này bị truyền thông chính thức (của đảng lãnh đạo) lãng quên.

       Những tường thuật của truyền thông cởi mở cũng phơi bày tội ác dưới thời Stalin và chế độ Sô Viết như Gulag, hiệp ước giữa Stalin và Adolf Hitler, Ðại Thanh Trừng. Thêm nữa cuộc chiến đang diễn ra tại Afghanistan, việc xử lý sai lầm vụ nổ lò nguyên tử Chernobyl năm 1986 mà Gorbachev cố gắng che khuất, làm tổn hại thêm uy tín của chính quyền Sô Viết vào lúc lòng bất mãn của nhân dân lên cao.    

       Trong tất cả, cái nhìn rất tích cực về đời sống Sô Viết được giới truyền thông nhà nước từ lâu trình bày đến công luận đã bị tháo bỏ nhanh chóng, và các khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống ở Liên Sô bị đem ra ánh sáng. Ðiều này phá sụp niềm tin công chúng đối với hệ thống Sô Viết và xói mòn cơ sở quyền lực xã hội của Ðảng Cộng Sản, đe dọa nền tảng và sự thống nhất của chính Liên Bang Sô Viết.

       Ngày 30/4/1975, Miền Nam Việt Nam bị Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm một cách vi hiến. Đây là nỗi buồn đau uất hận không nguôi của dân Việt!!!

       15 năm sau, hệ thống chính trị Cộng Sản độc tài độc chuyên trên thế giới bị sụp đổ tan rã. Đây là niềm vui đại thắng của nền văn minh nhân loại!!!
  
       {1}Tai họa nguyên tử Chernobyl:Đầu tháng 4/1986, Chernobyl (chữ Ukraine viết: Chornobyl) là một thành phố ít ai biết đến nằm trên sông Pripiat ở Trung - Bắc Ukraine. Hầu như tình cờ tên Chernobyl có liên hệ với nhà máy năng lượng nguyên tử V.I. Lenin nằm ở thượng nguồn cách đó khoảng 25 km.
       
       Ngày 26/4, sự vô danh của thành phố tan biến mãi mãi khi trong một cuộc thử nghiệm vào lúc 1 giờ 21 phút sáng, lò phản ứng số 4 phát nổ và thải ra số lượng phóng xạ nhiều gấp 30 đến 40 lần của những trái bom nguyên tử do Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima và Nagasaki ở Nhật vào năm 1945.
      
       Thế giới đầu tiên biết đến tai họa nguyên tử tệ hại nhất trong lịch sử nhân loại từ Thụy Điển nơi mà mức phóng xạ không bình thường được ghi nhận tại một trong các cơ sở nguyên tử của quốc gia này. Được xếp vào loại tai họa cực lớn trong ngành kỹ nghệ. Không ai tiên đoán được số lượng chính xác nạn nhân sau cùng là bao nhiêu.

       31 người bị chết liền ngay tại chỗ. Hàng trăm ngàn người Ukraine, Nga, và Belarus phải rời khỏi tất cả những thành phố và khu dân cư trong phạm vi một vùng đất 30 km đang bị nhiễm độc nặng. Có nhiều ước lượng khác nhau, nhưng phần chắc có khoảng 3 triệu người, trong đó hơn 2 triệu người Belarus, hãy còn sống trong khu vực bị nhiễm phóng xạ. Trong thành phố Chernobyl vẫn còn có 10.000 dân cư sống.

       Hàng tỷ đồng rubbles đã được chi ra, và hãy còn thêm nhiều tỷ khác được cần đến để di dời các cộng đồng dân cư cũng như biện pháp khử độc trên vùng đất nông nghiệp phì nhiêu.

       Chernobyl trở thành một trường hợp ghi nhớ không những chỉ kinh hoàng về tình trạng không kiểm soát được năng lượng hạt nhân nhưng cũng còn biểu hiện cho cách làm việc bí mật và lừa dối, không kể đến an toàn của công nhân và gia đình họ, cũng như bất lực để thực hiện các dịch vụ căn bản như chăm sóc y tế, chuyên chở, đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp.

       Vụ nổ lò nguyên tử Chernobyl đã làm lệch đi chương trình năng lượng hạt nhân nhiều tham vọng của Liên Sô.

       {2}Pakistan(tên cũ là Hồi Quốc): Quốc gia nằm trong tiểu lục địa Ấn Độ, dân số năm 1991 có 115.588.000 người, thủ đô là Islamabad. Pakistan được thành lập năm 1947 trong tình trạng một đất nước bị phân chia theo sau sự kiện đế quốc Anh rút khỏi thuộc địa Ấn Độ.

       Đầu tiên Pakistan có hai lãnh thổ riêng biệt ở Đông và Tây Ấn Độ có tên gọi Tây Hồi và Đông Hồi, trong đó đa số theo Hồi Giáo. Cuộc nội chiến xảy ra khi Đông Hồi tuyên bố đòi tự trị với sự can thiệp của Ấn tháng 12 năm 1971 khiến cho ra đời nhà nước Bangladesh độc lập năm 1972. Pakistan có lịch sử lâu dài dưới sự cai trị của các tướng lãnh và vùng đất Kasmir tranh chấp với Ấn chưa được giải quyết.

       {3}Phong Trào Mujahideen: Một mujahid (nghĩa đen từ chữ Ả Rập: người tranh đấu) là người chiến đấu cho tự do. Số nhiều của mujahid là mujahideen.

       Phong Trào Mujahideen nổi tiếng nhất là nhiều nhóm đối lập liên hệ gần gũi với người Afghanistan đầu tiên nổi lên chống chính quyền Afghanisstan thiên Cộng được Liên Sô ủng hộ vào cuối thập niên 1970. Sau đó khi Liên Sô can thiệp sâu vào nội tình Afghanistan, Mujahideen tổ chức cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Liên Sô xâm lược. 

Phạm Hoàng Tùng biên soạn.

Tài liệu tham khảo và dữ kiện được trích dẫn từ: