Bất Bạo Động Đồng Nghĩa Với Độc Tài Cộng Sản Muôn Năm! Người Việt Phải Hành Động Để Tự Cứu Mình! Đừng Trông Chờ Bất Kỳ Ai. Blog hoạt động từ ngày 28 tháng 2 năm 2.012

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Bản Chất Quân Đội Cộng Sản Việt Nam


CUỘC THẢM SÁT TẠI HUẾ
TẾT MẬU THÂN NĂM 1968

BÀI HAI

BẢN CHẤT QUÂN ĐỘI CỘNG SẢN VIỆT NAM


Hai trẻ thơ này vô tội
nhưng sao chết quá sớm
khi đời còn nhiều ước mơ.
Ảnh nguồn:
Tội ác Cộng Sản Việt Nam.


Cộng Sản cho thi hành án tử
theo kiểu thời Trung Cổ
cách đây 1.000 năm
bằng cách chặt đầu nạn nhân lìa khỏi cổ.
Ðây chính là “tính ưu việt”
của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa.
Nạn nhân ở Huế 1968.
Ảnh nguồn:
Tội ác Cộng Sản Việt Nam.

                CÁC NÉT CHÍNH VỀ QUÂN ÐỘI CỘNG SẢN VIỆT NAM

      1/ Tổng Quát

      Ngày 22/12/1944, người cầm đầu Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh cho thành lập Ðơn Vị Võ Trang Tuyên Truyền, hình thức đầu tiên của một đạo quân Cộng Sản. Nhóm võ trang này sau được đặt tên lại là Quân Giải Phóng vào tháng 5/1945. Tháng 9/1945 lại đổi tên thành Vệ Quốc Quân, vào thời điểm này quân đội Cộng Sản Việt Nam có 1.000 bộ đội.

      Từ năm 1954 đến năm 1975, có tên Quân Ðội Bắc Việt hay Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam. Lực lượng võ trang này bao gồm bộ binh, hải quân, không quân, bộ đội biên phòng, xe tank...

      Ðặc tính căn bản của quân đội Cộng Sản Việt Nam là được đặt dưới quyền điều động tuyệt đối của Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Quân đội Cộng Sản mang danh nghĩa là “của nhân dân” nhưng phải trung thành tuyệt đối với Ðảng Cộng Sản.

      Do vậy quân đội trong đất nước là tài sản riêng của Ðảng Cộng Sản, mỗi cấp chỉ huy từ thấp đến cao trong quân đội đều do đảng viên và cán bộ Ðảng Cộng Sản nắm giữ.

      Khác với quân đội các quốc gia trên thế giới được đặt dưới quyền chính phủ và thi hành theo luật pháp. Tại những nước tiến bộ và tôn trọng quyền dân chủ người dân, quân đội là tổ chức quân sự thuần túy chỉ làm nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ đất nước, và phi chính trị, không can thiệp vào sinh hoạt đảng phái, cũng không có hệ thống đảng ủy trong tổ chức quân đội.

      Chính quyền tại các nước tự do, dân chủ thay phiên nhau lên cầm quyền dựa trên luật căn bản là Hiến Pháp Quốc Gia, do đó quân đội không trung thành tuyệt đối với bất cứ chính quyền nào hay đảng chính trị nào, trái lại chỉ trung thành với quyền lợi quốc gia và dân tộc.

      Ngược lại tại những nước đc tài lạc hậu chậm tiến như chế độ Cộng Sản, quân đội là công cụ riêng của Ðảng Cộng Sản và mặc tình bị đảng thao túng.    

      Kiểu mẫu tổ chức này là do Cộng Sản Việt Nam sao y bản chính cách tổ chức của Hồng Quân Liên Sô nay đã tan rã. Ðiều này cho thấy Ðảng Cộng Sản Việt Nam chỉ rập khuôn bắt chước và không có sự sáng tạo độc lập, hơn nữa không nhìn thấy sai lầm trong cách thức tổ chức này, bởi vì nếu đánh đổ sai lầm này sẽ đụng chạm đến quyền lợi của riêng đảng cầm quyền hiện nay.

      Từ một đảng khởi đầu chủ trương Vô Sản trên mặt lý thuyết đến nay sau hơn 50 năm cầm quyền, Ðảng Cộng Sản Việt Nam biến tướng thành một loại Tư Bản mới, sống nhờ đô la và giàu đô la. Do đó, họ bị ám ảnh và luôn lo sợ bị mất quyền lợi vốn đi ngược lại với quyền lợi dân tộc, từ đó không dám cải tổ quân đội theo hướng các nước tiến bộ đã làm là tách quân đội ra khỏi chính trị, trái lại dùng quân đội để bảo vệ đảng quyền, bảo vệ chế độ độc đảng.

Bộ đội Cộng Sản Việt Nam
thời gian năm 2008.
Ảnh nguồn:
Mạng internet của
chế độ độc đảng độc tài.

      2/ Các Trang bị Quân Sự - Ðại Pháo - Hỏa Tiễn

      Từ thập niên 1960 đến 1975, Liên Bang Sô Viết là người cung cấp chính yếu các trang bị quân sự cho Cộng Sản Việt Nam. Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, Liên Sô tiếp tục cung cấp vũ khí cho Cộng Sản Việt Nam.

      1.800 xe tăng. 
      4.900 xe thiết giáp, thiết vận xa, APC (armoured personnel carrier).
      7.350 khẩu pháo. 
      159 trực thăng.
      …
     
      Xe tăng (tank)
      Tank chiến đấu chủ lực kiểu 59 (T-59) của Trung Cộng (360 chiếc).
      Tank chiến đấu chủ lực loại nhẹ kiểu 62 của Trung Cộng (300 chiếc).
      Tank chạy trên cạn và dưới nước kiểu 63 của Trung Cộng (150 chiếc). 
      Tank PT-76 loại nhẹ của Liên Sô (300 chiếc).
      Tank T-54/55 chiến đấu chủ lực của Liên Sô (990 chiếc).
      Tank T-62 chiến đấu chủ lực của Liên Sô (220 chiếc).
      Tank T-72 chiến đấu chủ lực của Ba Lan (480 chiếc).
      Tank SU-100 loại phá hủy (có trang bị đại bác chống chiến xa) của Liên Sô (132 chiếc).
      Tank PT-75 loại nhẹ của Cộng Sản Bắc Hàn (45 chiếc).
      ...
     
      Loại xe IFV (infantry fighting vehicle) xe dành cho bộ binh sử dụng trong chiến đấu, và APC (armoured personnel carrier) xe bọc sắt (thiết giáp) chở lính
      Xe BMP-1 loại IFV của Liên Sô (600 chiếc).
      Xe BMP-2 loại IFV của Liên Sô (600 chiếc).
      Xe BTR-50 loại APC chạy trên dây xích của Liên Sô (700 chiếc).
      Xe BTR-60 loại APC có bánh cao su của Liên Sô (450 chiếc).
      Xe BRDM-1 loại trinh sát của Liên Sô (100 chiếc). 
      Xe BRDM-2 loại trinh sát của Liên Sô (200 chiếc).
      Xe Kiểu 63 loại APC của Trung Cộng (300 chiếc).
      ...

      Súng dành cho bộ binh
      Súng Trường tấn công kiểu 63 của Trung Cộng.
      AK-47 cải tiến kiểu 56 của Trung Cộng.
      Carbine kiểu 56 của Trung Cộng.
      Súng Sáu (ngắn, còn gọi súng Lục) kiểu 54 của Trung Cộng.
      Súng RPG kiểu 69 của Trung Cộng.
      Súng Sáu TT-33 của Liên Sô.
      Súng Sáu PM của Liên Sô.
      ...
     
      Trọng pháo (đại bác)       
      Pháo B-10 82 mm, loại giật lui khi bắn, của Liên Sô (700 khẩu).
      Pháo B-11 107 mm, loại giật lui khi bắn, của Liên Sô (900 khẩu).
      Pháo SPG-9 73 mm, loại giật lui khi bắn, của Liên Sô.
      Pháo 2S1 122 mm, loại tự đẩy tới, của Liên Sô (200 khẩu). 
      Pháo 2S3 152 mm, loại tự đẩy tới, của Liên Sô (300 khẩu).
      Pháo D-20 152 mm, loại nòng ngắn bắn cao, của Liên Sô (500 khẩu).  
      Pháo D-30 122 mm, loại nòng ngắn bắn cao, của Liên Sô (400 khẩu).
      Pháo M-46 130 mm, loại kéo theo ra chiến trường, của Liên Sô (550 khẩu). 
      Pháo BM-13 có 16 ống phóng, 132 mm, loại bắn cùng một lúc nhiều hỏa tiễn, của Liên Sô (500 khẩu).
      Pháo BM-14 có 16 nòng, 140 mm, loại bắn cùng một lúc nhiều hỏa tiễn, của Liên Sô (700 khẩu). 
      Pháo BM-21 có 40 ống phóng 122 mm, hệ thống phóng một lúc nhiều hỏa tiễn, của Liên Sô (800 khẩu).
      ...  

      Hỏa tiễn/Tên lửa/Phi đạn              
      Hỏa tiễn Nudelman AT-2 Swatter, loại chống tank, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn Kolomna AT-3 Sagger, loại chống tank, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn AT-5 Spandrel, loại chống tank, của Liên Sô.        
      Hỏa tiễn SA-7 Grail, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn Lavochkin SA-2 Guideline, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn Isayev SA-3 Goa, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn SA-6 Gainful, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn SA-9 Gaskin, loại tự đẩy tới, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn SA-13 Gopher, hệ thống đất đối không, của Liên Sô.
      Hỏa tiễn Almaz SA-20A Gargoyle, hệ thống đất đối không của Cộng Hòa Liên Bang Nga.  
      Hỏa tiễn SS-1 Scud B/C, hỏa tiễn đạn đạo chiến thuật, của Liên Sô (2.000 cái).
      ...
      Chúng tôi trích dẫn một số hình ảnh chiến cụ như xe tank, đại pháo, hỏa tiễn mà các ngoại bang Cộng Sản như Liên Sô, Trung Cộng, Bắc Hàn... viện trợ dồi dào cho Quân Ðội “Nhân Dân” Việt Nam để họ mặc tình bắn bừa bãi vào nhà dân, làng xóm, trường học, chợ búa, miếu đình, chùa, nhà thờ, bịnh viện, thị trấn, thành phố trên khắp Miền Nam trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược mang mục tiêu “giải phóng” người dân khỏi cuộc sống an bình.   

      Tất nhiên Ðảng Cộng Sản Việt Nam còn nhận được rất nhiều loại vũ khí tối tân mang tính sát thương cao do ngoại bang cung cấp, vài hình ảnh dưới đây chỉ là tiêu biểu mà thôi. 

Tank T-59 (Trung Cộng).
Ảnh nguồn: wiki.


 Tank SU-100 (Liên Sô).
Ảnh nguồn: wiki.


Ðại pháo BM-21(Liên Sô).
Ảnh nguồn: wiki.


Hỏa tiễn SA-6 (Liên Sô).
Ảnh nguồn: wiki.


Hỏa tiễn SS-1 Scud B/C (Liên Sô).
Ảnh nguồn: wiki.

      3/ Nạn Nhân Trực Tiếp Của Bom Ðạn Do Ngoại Bang Cung Cấp Cho Cộng Sản Việt Nam

      Dưới đây chúng tôi trích dẫn bản tin thời sự được lưu trữ trong VN Center Archive:

      Việt Cộng gài mìn ở tỉnh Phú Yên giết hại người dân

      Sài Gòn ngày 14/ tháng 2

      54 thường dân gồm 4 trẻ em, đã bị giết chết, và có thêm 18 người bị thương do 3 trái mìn Việt Cộng chôn dưới mặt đường trong tỉnh Phú Yên - Miền Trung Việt Nam. Việt Cộng gài nhiều mìn trên đường nhằm trả đũa lại các hoạt động của Ðồng Minh bảo vệ mùa thu hoạch lúa cho nông dân.

      Dù ở nông thôn nhưng địa phương này phải nhập 600 tấn lúa mỗi tháng do vì Việt Cộng ngăn chận không cho dân sản xuất hay bắn phá làm nông dân lo sợ mỗi khi họ đi ra đồng canh tác. Nhiều hoạt động của Việt Cộng nhằm khủng bố tâm lý, phá hoại cơ sở vật chất ở vùng quê khiến diện tích canh tác lúa sụt giảm.

      Trái mìn thứ nhất nổ làm mặt đường bị khoét sâu xuống 3 thước, và làm một chiếc xe đò lớn chở khách bị hất tung xuống con kinh gần đó, 27 nông dân bị sát hại ngay tức khắc khi họ đang trên đường đi đến cánh đồng gần thị xã Tuy Hòa của Phú Yên, 11 người khác bị thương.

      Trái mìn thứ hai nổ làm hư hại chiếc xe chở khách, loại ba bánh, trên xe lúc đó chất đầy hành khách bao gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ, làm thiệt mạng 20 người, bị thương 7 người.

      Có thêm một chiếc xe ba bánh chở khách chạy cán lên trái mìn thứ ba làm chết 7 hành khách đang ngồi trên xe.

      Tai họa thảm khốc nhất do mìn gây ra vào đầu năm 1964 khiến cho 22 phụ nữ và trẻ con bị sát hại, những quả mìn này do Việt Cộng đào chôn dưới lòng đường để gây xáo trộn sinh hoạt đời sống người dân.

      Chủ trương đắp mô đất (có gài bom mìn bên trong) trên đường, gài mìn dưới lòng đường, phá cầu...là một kiểu chiến tranh gây tiêu hao trong thành phố, thị trấn, miền quê nhằm cướp bóc và khủng bố tâm lý người dân Miền Nam.

      Từ 1962 đến giữa năm 1965, theo số liệu của Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế đưa ra, ít nhất có 54.235 thường dân ở Miền Nam Việt Nam bị giết chết, bị thương do bom mìn Cộng Sản, trong đó có nhiều người bị bắt cóc thủ tiêu bí mật.  
       
TỔNG QUÁT CHIẾN TRANH XÂM CHIẾM MIỀN NAM
 TRƯỚC NĂM 1968

Con gái còn thơ nằm chết bên mẹ.
Đồng bào ở Huế bị Cộng Sản giết.
Ảnh nguồn:
Tội ác Cộng Sản Việt Nam.

      Sau khi chiếm được nửa Việt Nam ở phía Bắc, Ðảng Cộng Sản Việt Nam chưa thỏa mãn tham vọng “đỏ hóa” toàn bộ Việt Nam theo chỉ thị của Cộng Sản quốc tế. Do vậy Hiệp Ðịnh Geneva năm 1954 chỉ là một bước tạm ngưng để Cộng Sản củng cố lực lượng ở Miền Bắc như xiết chặt sự đàn áp và đưa xã hội Miền Bắc vào đúng quỹ đạo Cộng Sản quốc tế.

      Trong thời gian chưa tiến hành chiến tranh xâm lược Miền Nam, Cộng Sản vẫn âm thầm gài đặt cán bộ, đảng viên nằm lại Miền Nam chờ thời cơ hoạt động phá hoại. Nhiều người dân Miền Nam gồm một vài thành phần do thiếu thông tin chính xác về hiểm họa Cộng Sản nên đã nhẹ dạ nghe theo tuyên truyền của họ.

      Chỉ trong một năm 1957, 400 viên chức chính quyền Miền Nam bị Cộng Sản ám sát chết, bạo lực gia tăng dần lên, người dân Miền Nam bắt đầu sống trong tâm trạng lo sợ bị khủng bố. Lúc đầu khủng bố nhắm vào thành phần viên chức chính quyền, sau đó Cộng Sản khủng bố tràn lan, thầy giáo, nhân viên y tế, cán bộ nông nghiệp cũng bị bắt cóc, giết chết hay thủ tiêu. Trong năm 1958, 20% trưởng ấp ở nông thôn Miền Nam bị Cộng Sản giết hại. 

      Tháng 3/1959, người cầm đầu Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh tuyên bố tiến hành cuộc “chiến tranh nhân dân” với Miền Nam Tự Do. Cộng Sản Miền Bắc hỗ trợ đáng kể việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở Miền Nam, và đưa số người tập kết ra Bắc vào năm 1954 trở lại Miền Nam bằng đường mòn Hồ Chí Minh để hoạt động đánh phá.

      Tháng 5/1959, Văn Phòng Trung Ương Chỉ Ðạo Miền Nam được tái thành lập (Trung Ương Cục Miền Nam), đây là bộ máy đầu não chỉ đạo toàn bộ hoạt động đảng và quân sự trong Nam, các nhân vật trong bộ máy cầm đầu này thường có chân trong Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam hay là cấp lãnh đạo đảng được Hà Nội tin cậy về mặt chính trị tuyệt đối. Văn Phòng được đặt tại vùng rừng sâu thuộc tỉnh Tây Ninh gần biên giới Cam Bốt.

      Vào tháng 9/1959, Tiểu Ðoàn 2 Giải Phóng của Cộng Sản tấn công hai đại đội quân đội Miền Nam, đây là cuộc đụng độ đầu tiên của những đơn vị có quân số tương đối lớn so với các nhóm du kích gồm 5, 3 người chỉ tổ chức đánh lén lút. Vào cuối năm 1959, Cộng Sản đã thành lập mật khu, nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Miền Nam, ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long và Cao Nguyên Trung Phần (Tây Nguyên).

      Ðể tránh bị tố cáo là vi phạm Hiệp Ðịnh Geneva, Cộng Sản cho thành lập tổ chức mỵ dân ở Miền Nam tháng 12/1960, đó là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (gọi tắt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) do Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Kiến Trúc Sư Huỳnh Tấn Phát cầm đầu. Ðây chỉ là hình thức để lừa bịp trí thức và người dân Miền Nam, đứng sau giật dây Mặt Trận Dân Tộc này là Ðảng Cộng Sản.

      Thọ, Phát, Trương Như Tảng và còn nhiều người nữa chỉ là bù nhìn, bị lợi dụng rồi còn bị lịch sử phê phán thậm tệ là đã tiếp tay cho Cộng Sản giết chết nền tự do của dân tộc, đẩy cuộc sống dân tộc đi lùi lại nửa thế kỷ.

      Ðầu năm 1962, số cán bộ, chiến sĩ của Cộng Sản trong Nam đã lên đến 300.000 người. sau này Ðảng Cộng Sản Việt Nam tập trung chi viện các sư đoàn chủ lực ngoài Bắc cho lực lượng Cộng Sản trong Nam. Khi tình hình khủng bố, phá hoại, hoạt động quân sự của Cộng Sản tăng lên đáng ngại, Hoa Kỳ cũng gia tăng viện trợ cho Miền Nam.

      Giữa năm 1962, có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ tại Miền Nam. Viện trợ Liên Sô dành cho Cộng Sản Việt Nam vọt lên sau chuyến viếng thăm Hà Nội của Thủ Tướng Sô Viết Aleksei Kosygin tháng 2/1965, bao gồm các hỏa tiễn địa đối không kiểu mới nhất. Mỹ có 200.000 lính tại Miền Nam vào cuối năm 1965.

 Bài hát: Hận Tha La do Dạ Hương ca.
Cuộc sống đồng bào ta ngày càng nghèo đi
Khi chiến tranh mở rộng.
Chiến tranh đồng nghĩa với hủy diệt.
Cộng Sản Hồ Chí Minh quyết tâm
tiến hành chiến tranh “giải phóng”,
đồng nghĩa với việc Hồ Chí Minh
quyết liệt hủy diệt môi sinh,
sức sống và thể xác dân tộc Việt.
Ảnh nguồn:Youtube


Phạm Hoàng Tùng biên soạn.

Nguồn tài liệu tham khảo và dữ kiện trích dẫn từ:


Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Cộng Sản Ác Tâm Thảm Sát Đồng Bào Ta Tại Huế Đầu Xuân Năm 1968


CUỘC THẢM SÁT TẠI HUẾ
TẾT MẬU THÂN NĂM 1968

BÀI MỘT

TỔNG LƯỢC VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Khu Chợ Lớn thuộc thủ đô Sài Gòn bị pháo
tan nát, dân chúng không còn nhà để ở sau
khi “bị giải phóng”.
Ảnh nguồn: Tài liệu lưu trữ
tội ác Cộng Sản Việt Nam.

       Trong phần này, điều chính yếu muốn trình bày là về Cuộc Thảm Sát Tại Huế Tết Mậu Thân Năm 1968 mà Cộng Sản Việt Nam đã vô tâm giết hại hàng ngàn dân lành vô tội đang vui đón ngày Tết cổ truyền đáng trân trọng của dân tộc.

       Tuy nhiên để bạn đọc nhất là giới trẻ Việt Nam trong nước hiểu được bối cảnh đại lược giai đoạn đó, cho nên thấy cần thiết phải viết và biên soạn thêm về cuộc chiến Việt Nam, về bản chất quân đội Cộng Sản Việt Nam, và về diễn biến chiến cuộc trước khi Cộng Sản dùng bạo lực quân sự tàn phá thành phố Huế cũng như nhiều tỉnh thành trên khắp Miền Nam Việt Nam đầu Xuân 1968.

       Sau đó cũng để bạn đọc nhận định được đặc tính của hành động thảm sát man rợ này, xin trình bày thêm các vụ đánh bom khủng bố - phá hoại của Cộng Sản Việt Nam xảy ra vào thời gian trước năm 1968 nhắm vào đối tượng là sinh mạng dân thường, tài sản vật chất xã hội ở Miền Nam trước khi chiếm đoạt quyền lực chính trị một cách vi hiến để xây dựng nền độc tài Cộng Sản chuyên chế.

       Trước cuộc thảm sát Tết 1968 đã xảy ra các sự kiện như đặc công Cộng Sản đánh bom khủng bố - phá hoại khách sạn Brinks ở Sài Gòn năm 1964, đánh bom khủng bố - phá hoại nhà hàng Mỹ Cảnh ở Sài Gòn năm 1965, và Cuộc Thảm Sát Ðắc(Dak)Sơn - tỉnh Phước Long năm 1967 giết nhiều đồng bào Thượng cần cù, hiền lành.

       Trong các chương trước và chương này (14, tác phẩm biên khảo: Nhân Loại Thụ Hình - Tội Ác Độc Tài Cộng Sản - của Phạm Hoàng Tùng), phần ít ỏi nói về Việt Nam Cộng Sản gắn liền với chương là theo chủ đề chứ còn thời gian diễn tiến là yếu tố phụ.

       Chương này (14) nói về tội ác Hồng Quân do Cộng Sản Liên Sô chỉ đạo, và để bạn đọc thấy được nét tương tự trong hành động do mang cùng tính chất “Đấu Tranh Giai Cấp” xuất phát trên căn bản tư tưởng Chủ Nghĩa Marx - Lenin, nên có biên khảo thêm tội ác của quân đội Cộng Sản Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ðảng Cộng Sản Việt Nam.

Hỏa tiễn SA-2 Guideline (Liên Sô).
Liên Sô là nguồn cung cấp nhiều loại vũ khí,
một cách rất dồi dào cho Cộng Sản Việt Nam.
Ảnh nguồn: wiki.

TỔNG LƯỢC VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

       1/ Điểm Chính

       Chiến Tranh Việt Nam là cuộc xung đột quân sự xảy ra ở Việt Nam, Lào, Cam Bốt từ năm 1959 đến ngày 30/4/1975. Cuộc chiến gồm hai phía, phe Cộng Sản gồm Cộng Sản Bắc Việt với các quốc gia trong khối Cộng Sản thế giới như Liên Sô, Trung Cộng (Trung Quốc), Bắc Hàn…; Phe Tự Do bao gồm Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam với tinh thần tương trợ của các Đồng Minh như Hoa Kỳ và Tổ Chức Hiệp Ước Ðông Nam Á - Southeast Asia Treaty Organization (SEATO),….

       Có một số sử gia nghiên cứu về Việt Nam gọi đây là Chiến Tranh Ðông Dương Lần Thứ Hai để phân biệt với Chiến Tranh Ðông Dương Lần Thứ Nhất kéo dài từ năm 1945 đến 1954, cuộc chiến này do dân tộc Việt Nam tiến hành để lật đổ ách cai trị của thực dân Pháp nhưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam ẩn danh dưới những chiêu bài ngụy dân tộc như Việt Minh để lừa gạt và cướp công sức, máu xương người Việt.

       Sau đó Cộng Sản lập một chính quyền độc tài độc tôn lấy hệ tư tưởng Marx – Lenin ngoại lai để thống trị dân tộc đi ngược lại nguyện vọng được sống trong tự do, hòa bình và dân chủ của đại đa số đồng bào Việt Nam.

       Chiến tranh tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1959 (một số nhà nghiên cứu cũng lấy mốc năm 1954 khi phân chia hai Miền Nam - Bắc theo Hiệp Ðịnh Geneva) cho đến ngày 30/4/1975 thực chất là Cuộc Chiến Quốc - Cộng, với một bên là Cộng Sản Việt Nam làm vị trí con chốt đen cho các nước Cộng Sản quan thầy đàn anh, và một bên là Viêt Nam Cộng Hòa cố gìn giữ nền tự do non trẻ.

       Cuộc chiến trong giai đoạn này xuất phát từ ý chí xâm lược rất đổi ngông cuồng của những kẻ cầm đầu Ðảng Cộng Sản Việt Nam, mà Hồ Chí Minh là nhân vật chịu trách nhiều hơn ai hết, quyết liệt muốn thống nhất Việt Nam bằng bạo lực quân sự, nhất quán với tôn chỉ Marx – Lenin là phải tiến hành “cách mạng”, đấu tranh vũ trang không chút thương tiếc máu xương dân tộc và tàn phá môi sinh nghiêm trọng (“đốt cháy hết dãy Trường Sơn”, “đào núi lấp sông”...), miễn sao mở rộng biên thùy cho khối Cộng quốc tế.

       Nguồn gốc chiến tranh, thủ phạm gây nên chiến tranh với tội ác chất chồng, sự hủy diệt, đất nước điêu tàn, đổ nát, trí năng dân tộc suy giảm là do Ðảng Cộng Sản Việt Nam dưới sự cầm đầu của Hồ Chí Minh, nhân vật được Ðảng Cộng Sản Liên Sô huấn luyện từ thập niên 1920.

       Hoa kỳ đi vào cuộc chiến để ngăn chận Cộng Sản chiếm Miền Nam tự do, như một phần mở rộng chiến lược ngăn chận của đại cường này. Các cố vấn quân sự Mỹ bắt đầu đến Miền Nam từ năm 1950. Sự can dự của Mỹ gia tăng đầu thập niên 1960 và các đơn vị chiến đấu được triển khai vào năm 1965. Và sự liên hệ của Mỹ trong cuộc chiến lên đến đỉnh cao trong năm 1968 khi Cộng Sản Bắc Việt mở đợt tiến công khủng bố - phá hoại rộng khắp các tỉnh thành Miền Nam với mưu đồ cưỡng chiếm Miền Nam.

       Dù các phe tham chiến đặt bút ký Hiệp Ðịnh Hòa Bình Paris vào tháng Giêng/1973, và một đạo luật được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua trong tháng 6/1973 nhằm ngăn cấm Hoa Kỳ trực tiếp can thiệp quân sự thêm nữa vào cuộc chiến Việt Nam khi không có phép của Quốc Hội, nhưng chính quyền Mỹ vẫn đầu tư nhiều vào Miền Nam cho đến 1975. 

       Gần 3 triệu người Mỹ phục vụ tại Miền Nam Việt Nam. Giữa năm 1965 đến 1975, Hoa Kỳ chi phí 111 tỷ Mỹ Kim cho chiến tranh.

       Ngày 30/4/1975, Cộng Sản Bắc Việt đã răm rắp cúi đầu ngoan ngoãn hoàn thành ý nguyện của khối Cộng Sản quốc tế khi xua bộ đội và xe tăng vào thủ đô Sài Gòn. Sự thất thủ của Miền Nam tự do là một thương đau, uất hận to lớn của dân tộc Việt Nam.

       Nhưng 15 năm sau vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, khởi nguồn từ các nước Cộng Sản Ðông Âu bị Liên Sô vây hãm và xiềng xích, đã nổi dậy đòi tự do dân chủ, dẫn đến toàn khối Cộng Sản thế giới sụp đổ tan nát báo hiệu cho nền văn minh nhân loại không bị hủy diệt bởi chủ thuyết Cộng Sản vô đạo.

       Một nỗi buồn không nhỏ của dân tộc Việt và một niềm vui đại thắng cho cả nhân loại trên quả đất này.

Ðại pháo BM-13 (Liên Sô).
Ảnh nguồn: wiki.

       2/ Bảng Kê Số Tổn Thất Nhân Mạng Do Chiến Tranh Xâm Lược Gây Ra

       Tổn thất nhân mạng trong chiến tranh do Cộng Sản phát động: từ 3 đến 4 triệu người Việt ở hai chiến tuyến, từ 1,5 triệu đến 2 triệu người Lào và Cam Bốt (Kampuchea), và 58.159 quân nhân Hoa Kỳ quên thân mình hy sinh tại Miền Nam vì chính nghĩa tự do.

       Tội ác chiến tranh do Đảng Cộng Sản Việt Nam gây nên cho đến nay vẫn chưa được xét xử, trừng trị thích đáng. Ðây là một loại Tội Phạm Chiến Tranh và Tội Ác Chống Nhân Loại rất hung hiểm.
    
Các bên tham chiến
Phe Tự Do:
Việt Nam Cộng Hòa
Hoa Kỳ
Nam Hàn
Úc
Phi Luật Tân
Tân Tây Lan
Cộng Hòa Cam Bốt (Kampuchea)
Thái Lan
Vương Quốc Lào.

Phe Cộng Sản:
Cộng Sản Bắc Việt
Bộ Ðội “Giải Phóng” Miền Nam (một lực lượng võ trang ngụy dân tộc do Cộng Sản Bắc Việt dựng lên để mỵ dân và giựt dây, thực chất cả hai là một do Ðảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh cầm đầu)
Khmer Ðỏ (Cộng Sản Cam Bốt)
Pathet Lào (Cộng Sản Lào)
Trung Cộng
Liên Sô
Công Sản Bắc Hàn,….

Tổn thất nhân mạng   

Miền Nam Việt Nam chết 220.357 người; bị thương 1.170.000 người.
Hoa Kỳ chết 58.159 người; mất tích 2.000 người; bị thương 303.635 người.
Nam Hàn chết 4.960 người; bị thương 10.962 người.
Vương Quốc Lào chết 30.000 người, bị thương không rõ.
Úc chết 520 người; bị thương 2.400 người.
Tân Tây Lan (New Zealand) chết 37 người; bị thương 187 người.
Thái Lan chết 1.351 người.
Tổng số chết: 315.831 người.
Tổng số bị thương: hơn 1.490.000 người.

Cộng Sản Việt Nam chết và mất tích 1.176.000 người; bị thương hơn 600.000 người.
Trung Cộng chết 1.446 người; bị thương 4.200 người.
Liên Sô chết 16 người.
Tổng số chết: 1.177.446.
Tổng số bị thương: 604.000 người.

Dân thường Miền Nam chết: 1.581.000 người. Dân Miền Bắc chết: 2.000.000 người. Dân thường Cam Bốt chết: 700.000 người. Dân Lào chết: 50.000 người.

Các cháu bé còn dại khờ đã mang thương tích,
đây là mục tiêu của bom đạn Cộng Sản.
Tết không áo quần đẹp dạo chơi phố phường,
trái lại toàn thân dính đầy vết máu.
Ảnh nguồn: Tài liệu lưu trữ
tội ác Cộng Sản Việt Nam.

       3/ Nguồn Viện Trợ Của Trung Cộng

       Trong năm 1950, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng/Trung Quốc) mở rộng quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh/Cộng Sản) và chuyển cho nhiều võ khí, cũng như cố vấn quân sự (chuyên gia) do Luo Guibo (La Quý Ba, 1908-1995) lãnh đạo để giúp đỡ Cộng Sản đánh nhau với Thực Dân Pháp.

       Dự thảo đầu tiên của bản Hiệp Ðịnh Geneva năm 1954 được thương lượng giữa Thủ Tướng Pháp Pierre Mendes-France và Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, người lo sợ sự can thiệp của Mỹ, yêu cầu Cộng Sản Việt Nam phải chấp nhận sự phân chia ở vĩ tuyến 17. Khả năng của Trung Cộng viện trợ cho Cộng Sản Việt Nam suy giảm khi nguồn viện trợ của Liên Sô dành cho Trung Cộng suy giảm theo sau kết thúc Chiến Tranh Triều Tiên năm 1953. Hơn nữa khi Việt Nam bị phân chia, sẽ ở trong tình trạng ít đe dọa Trung Cộng hơn.

Hình trích từ phần giới thiệu tác phẩm
 “Hồi Ký Của Những Người Trong Cuộc”
của nhà biên khảo Trần Giao Thủy, tháng 4/2009.
Giòng chữ dưới cùng của hình:
 Hồ Chí Minh (trái) cùng Trần Canh (phải)
 bàn kế hoạch chiến tranh biên giới.
Ảnh nguồn: mạng Đàn Chim Việt.

       Trung Quốc cung cấp kỹ thuật và vật chất cho Cộng Sản Việt Nam trị giá hàng trăm triệu Mỹ Kim. Lúa gạo do Trung Quốc chi viện giúp Cộng Sản Việt Nam dồn hết nhân lực trai tráng trên đồng lúa vào quân đội và khởi đầu áp đặt lịnh bắt lính toàn diện vào năm 1960.

       Trong mùa Hè năm 1962, Mao Trạch Ðông đồng ý “viện trợ không đòi hỏi đền bù” cho Cộng Sản Việt Nam 90.000 khẩu súng trường và súng ngắn. Bắt đầu năm 1965, Trung Quốc gởi các đơn vị phòng không và tiểu đoàn công binh kỹ thuật đến Bắc Việt để sửa chữa những tổn hại do bom Mỹ gây ra, xây dựng lại đường xe đi và đường rầy xe lửa, và những công việc kỹ thuật khác.

       Ðiều này giúp quân đội Cộng Sản Việt Nam không bận tay và ào ạt đổ vào Miền Nam mở rộng chiến tranh xâm lược. Giữa năm 1965 đến 1970, có trên 320.000 lính Trung Cộng phục vụ trong lãnh thổ Bắc Việt. Ðỉnh điểm hiện diện của đoàn quân ngoại bang là năm 1967, lúc đó 170.000 bộ đội Trung Cộng có mặt trên Miền Bắc nước ta với sự đồng ý của Hồ Chí Minh. 

       Quan hệ căng thẳng giữa Liên Sô – Trung Cộng trở nên xấu hơn khi Liên Sô xâm lăng Czechoslovakia tháng 8/1968. Vào tháng 10, Trung Cộng yêu cầu Hà Nội cắt bỏ mối quan hệ với Liên Sô nhưng Hà Nội không tuân lời. Trung Cộng bắt đầu rút quân khỏi Miền Bắc vào tháng 11/1968 và chuẩn bị chiến tranh với Liên Sô, sau này xảy ra ở Ðảo ZhenBao tháng 3/1969.

       Trung Cộng cũng bắt đầu viện trợ cho Khmer Ðỏ (Cộng Sản Cam Bốt/Kampuchea) như một lực đối kháng với Cộng Sản Việt Nam vào lúc đó. Trung Cộng rút quân hoàn toàn khỏi Bắc Việt Nam vào tháng 7/1970.

       4/ Nguồn Viện Trợ Từ Ðảng Cộng Sản Liên Sô

Cựu chiến binh Liên Sô ngày nay.
Hình để minh họa.
Ảnh nguồn: Liên mạng toàn cầu.

       Liên Sô viện trợ cho Cộng Sản Việt Nam các loại dược phẩm cho quân đội, vũ khí, xe tank, máy bay, trực thăng, trọng pháo, hỏa tiễn phòng không (bắn máy bay), và nhiều trang bị quân sự khác. Bộ đội tên lửa (hỏa tiễn/phi đạn) Liên Sô đã dùng các hỏa tiễn đất đối không do Liên Sô chế tạo bắn rơi đầu tiên các máy bay B.52 của Mỹ đột kích Hà Nội.

       Vài chục người Liên Sô mất mạng trong Chiến Tranh Việt Nam. Theo sau sụp đổ Liên Bang Sô Viết năm 1991, các viên chức Nga thừa nhận Liên Sô đã đồn trú trên 3.000 quân ở Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh.

       Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn vài đoạn trong điện báo Ánh Dương tháng 2/2008 ở California – Hoa Kỳ nói về các tiết lộ mới đây trên báo Russia Today ở Nga về sự hiện diện của binh lính Cộng Sản Liên Sô trên lãnh thổ Bắc Việt trong cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam:

       Hôm thứ Bảy một số cựu binh Liên Sô trong cuộc chiến Việt Nam đã làm lễ kỷ niệm sự tham dự của họ trong cuộc xung đột nhân dịp 35 năm Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Việt Nam.

       Theo báo Nga Russia Today 16/02/2008, Liên Sô không bao giờ công nhận sự dính líu trực tiếp của mình trong cuộc chiến, nên nhiều năm, các cựu binh này không được ghi nhận công trạng.

       Ông Nikolay Kolesnik được Russia Today trích lời, những quân nhân Nga như ông phải được nói đến cụ thể chứ không phải một cách chung chung.

       Nikolay Kolesnik nói: “Chúng tôi làm tất cả để ngăn các cuộc không kích. Chính thức chúng tôi chỉ được coi là chuyên gia quân sự Nga. Cấp chỉ huy mang danh chuyên gia cao cấp. Điều duy nhất chúng tôi biết mình thuộc nhân dân Liên Sô, là binh sĩ Liên Sô. Chúng tôi làm tất cả để ngăn các cuộc không kích".
         
       Từ sau khi Liên Sô sụp đổ, họ muốn được nhìn nhận như các “cựu chiến binh” một cách công khai.

       Buổi lễ hôm 16/02 còn là dịp để Ðảng Cộng Sản Việt Nam cám ơn các binh sĩ Sô Viết từ lâu không được chính nước Nga ngợi ca.

       Dưới thời Nikita Khrushchev, tuy Liên Sô trợ giúp Bắc Việt Nam về mặt quân sự và kinh tế nhưng không muốn tỏ ra công khai cử quân lính sang giúp vì e ngại gây căng thẳng với Hoa Kỳ.

       Ông Ilya Shcherbakov, Ðại Sứ Liên Sô tại Hà Nội từ năm 1964 đến 1974, ban đầu nhận nhiệm vụ coi chừng các hành động của chuyên gia quân sự Liên Sô bị phát hiện.

       Nhưng từ thời Leonid Brezhnev, Moscow mạnh bạo hơn trong việc đưa bộ đội sang Việt Nam. Tướng Vladimir Abramov được giao nhiệm vụ chỉ huy các sĩ quan và binh lính Sô Viết trong vùng Đông Nam Á. (Hết trích).

       5/ Viện Trợ Của Cộng Sản Bắc Hàn

       Do quyết định của Ðảng Công Nhân Triều Tiên trong tháng 10/1966, vào đầu năm 1967, Cộng Sản Bắc Hàn gởi một phi đội chiến đấu đến Miền Bắc Việt Nam hỗ trợ cho các Phi Ðội 921, 923 của quân đội Cộng Sản Việt Nam phòng thủ Hà Nội.

       Lính Cộng Sản Bắc Hàn ở lại Bắc Việt trong suốt năm 1968, thời gian này có đến 200 bộ đội. Ngoài ra, có ít nhất hai trung đoàn pháo phòng không được chi viện cho Hà Nội. Cộng Sản Bắc Hàn cũng gởi vũ khí, đạn dược và hai triệu bộ quân phục cho các đồng chí họ ở Bắc Việt. Lãnh đạo Cộng Sản Bắc Hàn Kim Il Sung từng nói với các phi công Bắc Hàn tới Bắc Việt chiến đấu: “chiến đấu trên bầu trời Việt Nam cũng như trên bầu trời chúng ta”.   
 
       Nhưng Bắc Triều Tiên đến năm 2001 mới thừa nhận họ có quân tại Bắc Việt Nam.

       Trong bài viết trên Asia Times ngày 18/8/2006 tác giả Richard M Bennett cho biết có khoảng 200 phi công Bắc Hàn đã tham gia bảo vệ Hà Nội trong các đợt tấn công của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam.

       Lễ tưởng niệm các phi công Cộng Sản Bắc Hàn tử trận tại Việt Nam cũng chỉ được nói đến hồi tháng 7/2001.

  Bài hát Sầu Cố Đô do Hương Lan ca.
Những hình ảnh đau thương, khổ nhục,
 chết chóc của đồng bào ta trong chiến tranh,
 khiến lòng người xót xa vô vàn.
Đây là tội ác nghiêm trọng đáng nguyền rủa
 do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam
chủ động, ác tâm gây nên.
Ảnh nguồn: youtube.


Phạm Hoàng Tùng biên soạn.

Tài liệu tham khảo và dữ kiện được trích dẫn từ: